QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một quy luật cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quyết định, chi phối sự vận động của lịch sử xã hội loài người từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, từ cộng sản nguyên thủy lên dần tới cộng sản chủ nghĩa trong tương lai. Việc vận dụng đúng đắn quy luật này có ý nghĩa thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trên cơ sở đó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Sau 30 năm đổi mới, kinh tế - xã hội nước ta có bước phát triển vượt bậc mà một trong những nguyên nhân cơ bản là nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này của Đảng và Nhà nước ta.
Nhìn một cách tổng quát, việc nhận thức và vận dụng quy luật này ở nước ta hiện nay chính là yêu cầu xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời là những thay đổi cụ thể trong từng mặt của quan hệ sản xuất: thay đổi về quan hệ sở hữu, về cơ chế quản lý và về chế độ phân phối sản phẩm. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này có sự phát triển qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay.
1. Sự phát triển nhận thức về vấn đề xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Trở về những năm sau giải phóng miền Bắc, ngay từ khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã tuyệt đối hóa vai trò của quan hệ sản xuất, thể hiện ở chủ trương đưa quan hệ sản xuất đi trước, mở đường, tạo động lực cho lực lượng sản xuất phát triển. Sau một thời kì thực hiện cải tạo “quan hệ sản xuất” không phù hợp, đến Đại hội lần VI, Đại hội mở đầu cho thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận: chúng ta chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, Đảng ta có sự thay đổi nhận thức rất quan trọng và khẳng định mạnh mẽ hơn, phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát triển lực lượng sản xuất, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thay đổi quan hệ sản xuất nhằm giải phóng sức sản xuất, Đảng ta chủ trương điều chỉnh cơ cấu sản xuất, phân bố lại cơ cấu đầu tư; “Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động”1.
Tiếp tục chủ trương đổi mới từ Đại hội VI, nhằm tạo động lực cho lực lượng sản xuất phát triển, Đại hội VII đã cụ thể hóa định hướng phát triển quan hệ sản xuất: “Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu”2. Với việc khuyến khích sử dụng nhiều hình thức sở hữu, Đại hội VII đã thực sự tạo bước đột phá - động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta xác định mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và đảm bảo quốc phòng an ninh vững chắc.
Để có cơ sở đánh giá tính khả thi và hiệu quả thực tế của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, Đảng ta đã đưa ra tiêu chí: “Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh3. Đến Đại hội IX, Đảng ta đưa ra tiêu chí đánh giá thiết thực, cụ thể hơn, đó là: “thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”.
Tại Đại hội X, tổng kết 20 năm sau đổi mới, Đảng ta đã khẳng định và nhấn mạnh một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là “có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng      sản xuất”1.
Nhận thức được tầm quan trọng có tính quyết định của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã đưa mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở thành một trong tám mối quan hệ lớn phải đặc biệt chú trọng giải quyết tốt trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chú trọng xây dựng từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đồng thời “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”2.
Cũng tại Đại hội XI, tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội đã khẳng định, tán thành nội dung đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đó là: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Điều đó không chỉ là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn là sự phù hợp với bản chất, định hướng của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, tổng kết 30 năm đổi mới, tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định tiếp tục quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ “…giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa…”3một trong 12 nhiệm vụ tổng quát, trọng tâm.
Như vậy, ở mỗi thời kỳ, giai đoạn khác nhau, Đảng ta luôn đưa ra những chính sách hết sức cụ thể, thiết thực để từng bước khắc phục mặt yếu kém, tạo ra sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, tạo động lực cho kinh tế - xã hội phát triển. Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức của Đảng về yêu cầu xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng sâu sắc, đúng đắn. Tính hiệu quả của nó mang lại là kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân được nâng cao, đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
2. Sự phát triển nhận thức về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Đã có một thời gian dài, nhận thức của chúng ta rơi vào sai lầm khi quan niệm giản đơn, ấu trĩ, rằng muốn có chủ nghĩa xã hội, chỉ cần xây dựng chế độ sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta đã vội vàng xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, duy trì duy nhất  chế độ công hữu với hai thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Thực tế cho thấy chính sách này không phù hợp, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, đưa kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Khắc phục những nhận thức sai lầm này, bước vào thời kì đổi mới, Đảng ta đã có những thay đổi nhận thức có tính chất đột phá về các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; các thành phần kinh tế thuộc mọi hình thức sở hữu đa dạng, đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, Đảng ta đã đưa ra những chính sách đột phá về cơ cấu thành phần kinh tế, khẳng định tính chất quan trọng của các thành phần kinh tế. Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, phù hợp với Việt Nam khi đi từ nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời thể hiện tinh thần dân chủ, đảm bảo mọi người được làm chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật. Các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, bổ sung cho nhau và bình đẳng trước pháp luật. Trong các thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh giữ vai trò then chốt, có đủ lực lượng chi phối thị trường song không nhất thiết phải chiếm tỉ trọng lớn trong mọi ngành nghề. Kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân được tạo điều kiện phát triển, bởi trong điều kiện từ sản xuất nhỏ đi lên như nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân, vẫn cần thiết và tồn tại lâu dài trong nền kinh tế quốc dân.
Tiếp theo tinh thần Hội nghị Trung ương 6, Đại hội VII nêu rõ: “Phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện”1. Với chính sách này, 5 năm sau đổi mới, nền kinh tế nước ta có những bước chuyển biến hết sức năng động, tích cực; mang lại sắc thái mới, tiềm lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, đồng thời giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, Đại hội IX và X đã có những đổi mới căn bản về chính sách đối với các thành phần kinh tế, khẳng định các thành phần kinh tế là một bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển hợp tác, cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật. Trong đó, kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt, kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt, kinh tế tư nhân là một trong những động lực phát triển của nền kinh tế. Khuyến khích tăng cường sự phát triển hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, thúc đẩy xã hội hóa kinh doanh và sở hữu.
Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với 1 số ngành, lĩnh vực sản phẩm, một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa”2, nhằm tạo điều kiện tối đa, khẳng định chính sách nhất quán, tạo mọi thuận lợi cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Đại hội XI khẳng định chính sách mấu chốt trong những năm tới là “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế”; “Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”1.
Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục nhất quán đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp). Bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu, bảo đảm quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo đảm quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Đây là vấn đề rất mới, nhằm khắc phục “đặc quyền, đặc lợi” trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công. Tất nhiên, vai trò chủ đạo vẫn thuộc về kinh tế nhà nước, nhà nước có nhiệm vụ định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Nhà nước là đầu mối chỉ đạo, dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế, nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện công bằng xã hội, phát huy vai trò làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Về kinh tế tư nhân, tại Đại hội X, Đảng ta xác định: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”2. Đại hội XI của Đảng tiếp tục tái khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế”3. Đến Đại hội XII Đảng ta nhấn mạnh: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”4. Việc coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta. Sự nhận thức này phản ánh đúng thực tế vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay.




1  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 58.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 135.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 87.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 68.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 73.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 80.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 95.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 84.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 205-206.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 74.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 103.

PGS, TS BÙI THỊ TỈNH - Học viện Chính trị Công an nhân dân

Nhận xét