Điều 25 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1948 chỉ
rõ: “Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe
và các phúc lợi xã hội bao gồm: ăn, mặc, chăm sóc y tế (gồm cả thai sản), dịch
vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm
đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già... hoặc các trường hợp bất khả kháng khác”. Như
vậy, việc bảo đảm quyền được an sinh xã hội cho người dân là yêu cầu,
điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển của mọi quốc gia,
trong đó có Việt Nam.
Chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo đảm quyền được an sinh xã hội cho người
dân
Bảo đảm an sinh
xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước.
Đây là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực
hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Ngay từ khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã coi nhiệm vụ diệt “giặc
đói”, “giặc dốt” như diệt giặc ngoại xâm. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
có mong ước: Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tuy nhiên,
cụm từ “an sinh xã hội” chính thức được sử dụng tại Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 4 - 2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã
hội và an sinh xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01-6-2012, của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012 - 2020” - Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương về vấn đề
xã hội đã đặt ra yêu cầu phải đặt chính sách xã hội ngang tầm
với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế,
phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời
kỳ; coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của
Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; xây dựng hệ thống an
sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người
dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ.
Nghị quyết số
15-NQ/TW đặt ra mục tiêu, đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã
hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu
nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội và bảo đảm hỗ trợ kịp thời những người
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi
thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…), góp phần từng bước nâng
cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Theo đó, Hiến
pháp năm 2013 cũng đã bổ sung các quyền về an sinh xã hội của người dân.
Điều 34 xác nhận “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; Điều 59 đề ra
trách nhiệm “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã
hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”.
Như vậy, quan
điểm của Đảng và nội dung của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm an sinh xã hội cho
mọi người dân hướng tới bảo đảm quyền được an sinh xã hội của người dân đã được
thể chế hóa, cụ thể như sau:
Một là, hướng tới
việc làm bền vững.
Bộ luật Lao
động sửa đổi (năm 2012) tiếp tục phát triển thị trường lao động, tăng
cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham gia thị trường lao động (Nhà
nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và người lao động); tăng
cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông
qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.
Với việc ban
hành Luật Việc làm (năm 2013), lần đầu tiên Việt Nam có luật hướng đến
khu vực kinh tế phi chính thức, đã tạo điều kiện hỗ trợ lao động nghèo, lao
động nông thôn, người thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho lao động
khu vực phi chính thức. Hiện tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã và đang
được xây dựng để đưa Bộ luật Lao động và Luật Việc làm đi vào cuộc sống.
Hai là, tăng
cường trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt.
Trong thời gian
qua, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không ngừng được mở rộng, bao phủ các
nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ trợ không chỉ người nghèo mà
còn mở rộng sang các đối tượng khác. Mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh tăng,
điều kiện hưởng và hình thức hỗ trợ ngày càng đa dạng. Nguồn lực thực hiện
chính sách trợ giúp xã hội được đa dạng, kết hợp ngân sách địa phương và của xã
hội. Các hình thức trợ giúp ngày càng đa dạng, bao gồm tiền mặt hằng tháng,
tiền nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội; hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà
ở, nước sạch…
Ba là, phát
triển và thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Nhà nước tiếp
tục hoàn thiện thể chế chính sách, về cơ bản đã tạo khuôn khổ pháp luật cho
toàn bộ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và đa số người lao động tham
gia bảo hiểm thất nghiệp.
Luật Bảo hiểm
xã hội sửa đổi (năm 2014) mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với
người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối
với việc trốn đóng bảo hiểm xã hội; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao
động trong khu vực phi chính thức; hỗ trợ, khuyến khích người lao động nghèo,
khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội; hiện đại hóa công tác quản lý
đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Luật Việc làm
(năm 2013) mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp
(mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng
trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp).
Bốn là, hướng tới
giảm nghèo toàn diện và bền vững.
Chính sách giảm
nghèo tiếp tục được hoàn thiện theo hướng: tăng cường hỗ trợ người nghèo toàn
diện; tiếp cận giảm nghèo đa chiều; tập trung giảm nghèo cho đồng bào dân tộc,
các vùng nghèo, huyện nghèo; cải cách, đổi mới thể chế chính sách, nâng cao
hiệu quả thực hiện chương trình giảm nghèo; cải cách quản lý, thực hiện mục
tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững.
Nhà nước đã ban
hành rất nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục - đào tạo; tiếp cận y
tế; hỗ trợ đối với hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm
nghiệp có mức sống trung bình tham gia bảo hiểm y tế; sửa đổi chính sách hỗ
trợ tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo về mức vay và lãi suất vay; với hộ cận
nghèo, được sửa đổi theo hướng kéo dài thời gian cho vay đối với hộ mới thoát
nghèo; chính sách đào tạo nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động tiếp tục được
hoàn thiện, trong đó ưu tiên cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ sinh sống trên
địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo; hỗ trợ về nhà ở, tiền điện cho hộ nghèo.
Một số kết quả
đạt được
- Về
giải quyết việc làm: Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề
mỗi năm đã tạo việc làm cho khoảng 320.000 người; nhiều người khuyết tật, người
dân tộc, người ở vùng bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã được
vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Năm 2015, đã
giải quyết việc làm cho 1.625.000 người (1.510.000 việc làm trong nước và trên
110.000 việc làm có thời hạn ở nước ngoài); tỷ trọng lao động trong lĩnh vực
nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn 42,54%; tỷ lệ thất nghiệp trong độ
tuổi lao động duy trì ở mức thấp 2,31% (tỷ lệ này ở khu vực thành thị là
3,29%; trong thanh niên là 6,85%).
- Về
giảm nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm còn dưới 5% đến cuối năm 2015.
Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo còn dưới 28% năm 2015.
- Về
bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp: Đến cuối năm 2015, có 12.166.000
lao động (chiếm 24,1% lực lượng lao động) tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó
bảo hiểm xã hội bắt buộc có 11.912.000 người và bảo hiểm xã hội tự
nguyện có 254.000 người. Tổng số người được hưởng các chế độ bảo hiểm xã
hội hằng tháng là 2.800.000 người. Có 10.185.000 người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp, chiếm 20,2% lực lượng lao động. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã chi 4.800
tỷ đồng cho hơn 600.000 người.
- Về
trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Đến cuối năm
2015, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 31.000 tấn gạo cứu đói cho gần 2.100.000 lượt
người ở 21 tỉnh, tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Bình
Định, Quảng Bình. Đã trợ cấp tiền mặt hằng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế
cho trên 2.643.000 đối tượng (37.348 trẻ mồ côi, 88.594 người đơn thân nuôi con
thuộc hộ nghèo, 1.480.000 người trên 80 tuổi, 896.644 người khuyết tật, 69.257
gia đình, cá nhân chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng, 8.185
người có HIV thuộc hộ nghèo). Cả nước hiện có 408 cơ sở trợ giúp xã hội nuôi
dưỡng, chăm sóc trên 41.400 đối tượng, trong đó số đối tượng bị khuyết tật, tâm
thần chiếm tới 56,5%.
- Về
bảo đảm giáo dục tối thiểu: Đến năm 2015, tỷ lệ trẻ 5 tuổi học mầm non đạt
97,93%; trẻ dưới 4 tuổi học mầm non đạt 86,61%; đi học tiểu học đúng tuổi đạt
98,69%, đi học trung học cơ sở đúng tuổi đạt 90,89%; tỷ lệ học sinh đạt trình
độ phổ thông trung học là 62%; tỷ lệ trẻ khuyết tật đi học đạt 60%; số sinh
viên trên một vạn dân đạt 250 người; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15
tuổi trở lên đạt 99%. Hiện cả nước có 1.467 cơ sở dạy nghề (190 trường cao
đẳng nghề; 280 trường trung cấp nghề; 997 trung tâm dạy nghề và hơn 1.000 cơ sở
có dạy nghề); tuyển sinh gần 2.000.000 người; hỗ trợ khoảng 550.000 người học
nghề. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 51%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 38,5%.
- Về
bảo đảm y tế tối thiểu: Đến năm 2015, có 98,4% số xã có trạm y tế xã hoạt
động; 96% số thôn, bản có nhân viên y tế thôn, bản, có 80% số xã có bác sĩ, 50%
số xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã; trên 95% số xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ
hộ sinh; bảo hiểm y tế đã chi trả chi phí để phụ nữ khi có thai được khám
thai, sinh đẻ tại các cơ sở y tế.
Tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ em thể nhẹ cân còn khoảng 14,1%; thể thấp còi còn 24,2%; tỷ lệ tử
vong bà mẹ giảm xuống 58,3 trên 100.000 trẻ đẻ sống, giảm tử vong ở trẻ em dưới
1 tuổi xuống 14,7‰. Tỷ lệ phụ nữ đẻ được khám thai ít nhất 3 lần đạt trên 90%,
tỷ lệ phụ nữ đẻ do cán bộ y tế qua đào tạo đỡ đạt 98%, tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ
sinh được chăm sóc tuần đầu sau sinh đạt 81%. Hiện có gần 70.000.000 người
tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 76% dân số, trong đó, số người thuộc hộ nghèo
và dân tộc thiểu số là 11.796.000 người, số người thuộc hộ cận nghèo là
2.992.000 người.
- Về
bảo đảm nhà ở tối thiểu: Sau 3 năm thực hiện, đến năm 2015, đã hỗ trợ 7.600
hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh bão lụt tại 7 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và
duyên hải miền Trung. Với Chương trình phát triển nhà ở xã hội dành cho công
nhân khu công nghiệp, đã xây dựng 28.550 căn hộ và đang tiếp tục xây dựng
69.300 căn hộ. Với Chương trình nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu
vực đô thị, đã xây dựng 25.850 căn hộ và tiếp tục xây dựng khoảng 61.290 căn
hộ. Với Chương trình nhà ở cho học sinh, sinh viên được đầu tư bằng trái phiếu
chính phủ, đã bố trí nhà ở cho 200.000 sinh viên, đạt tỷ lệ bình quân 80% nhu
cầu.
- Về
bảo đảm nước sạch: Đến hết năm 2015 đã xây dựng được hơn 1.000 công trình
nước sạch tập trung, nâng tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt
hợp vệ sinh lên 86%, được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế lên
45%.
- Về
bảo đảm thông tin: Sau hơn 3 năm thực hiện, tỷ lệ xã có điểm truy cập điện
thoại công cộng đạt 97%; có đường truyền cáp quang đến xã đạt 96%; có đường
truyền cáp đồng đạt 90%. Mạng lưới bưu chính được duy trì với khoảng 16.000
điểm giao dịch, trong đó có khoảng 7.640 điểm bưu điện văn hóa xã.
Chương trình
tăng cường nội dung thông tin và truyền thông về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, biên giới và hải đảo đã phát sóng 4.195 chương trình phát thanh, truyền
hình; đặt hàng các nhà tổ chức sáng tác, xuất bản, in và phát hành 1.327.631
bản sách chuyên đề cung cấp và quảng bá đến các xã; tổ chức sáng tác, xuất bản
và in, phát hành và quảng bá 1.378.933 ấn phẩm truyền thông phổ biến kiến thức
về nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe; thiết lập 7 cụm thông tin đối ngoại tại các
khu vực cửa khẩu quốc tế; cấp miễn phí 24 loại ấn phẩm báo, tạp chí cho đồng
bào vùng dân tộc thiếu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn với trên 40 triệu
ấn phẩm.
Một số thách
thức đối với việc bảo đảm an sinh xã hội hiện nay
Thứ nhất, một số
chỉ tiêu không hoàn thành so với mục tiêu đề ra của Nghị quyết. Mặc dù đã thu
được một số kết quả rất đáng khích lệ, song chúng ta vẫn chưa hoàn thành một số
chỉ tiêu cụ thể, như tỷ lệ việc làm trong nông nghiệp, tỷ lệ tham gia bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; một số chỉ tiêu về y tế, giáo dục; chỉ tiêu về
tiếp cận nước sạch.
Thứ hai, chất lượng
thực hiện các mục tiêu chưa cao. Chất lượng việc làm còn thấp; tỷ lệ lao động
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp còn cao; kết quả giảm nghèo chưa vững chắc,
mức chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư có xu hướng gia
tăng; tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tăng chậm; chất
lượng phổ cập giáo dục còn chênh lệch, đặc biệt với nhóm trẻ em dân tộc thiểu
số, hộ nghèo và vùng đặc biệt khó khăn; tuyển sinh cao đẳng nghề, trung cấp
nghề gặp nhiều khó khăn; vẫn còn gần 25% dân số chưa tham gia bảo hiểm y tế;
chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở chậm được triển khai; tỷ lệ người dân nông
thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn quốc gia còn thấp.
Thứ ba, hệ thống
chính sách an sinh xã hội còn cồng kềnh, chồng chéo. Hiện nay có khoảng 233 văn
bản chính sách do Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan khác nhau
ban hành và tổ chức thực hiện. Do quá nhiều chính sách, lại được ban hành ở
nhiều giai đoạn khác nhau, áp dụng cho nhiều nhóm đối tượng rộng, hẹp khác nhau
nên chồng chéo, thiếu tính hệ thống, gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách,
quản lý đối tượng. Chủ trương tích hợp hệ thống chính sách cũng như việc lồng
ghép thực hiện chính sách cho cùng một nhóm hưởng thụ cũng chưa triển khai
được.
Thứ tư, một số chương
trình an sinh xã hội chưa thực sự hiệu quả. Chương trình đào tạo nghề cho lao
động nông thôn, các chương trình trợ giúp xã hội còn phân tán về đối tượng,
kinh phí, tổ chức thực hiện. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính
sách về an sinh xã hội ở một số địa phương còn yếu, hình thức thông tin,
tuyên truyền chưa hiệu quả. Chương trình giảm nghèo chưa khuyến khích người dân
tự an sinh, người nghèo tự vươn lên thoát nghèo.
Thứ năm, việc bảo
đảm an sinh tối thiểu cho người dân gặp nhiều khó khăn, thách thức, do số lượng
các chương trình an sinh xã hội hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu về an sinh của
người dân; phạm vi bao phủ của chính sách an sinh xã hội bị hạn hẹp, chỉ phục
vụ cho một nhóm dân cư, thông thường là nhóm dân cư “khỏe hơn, tốt hơn” trong
xã hội; tài chính hạn chế và sự phân bố tài chính thiếu hợp lý giữa các chương
trình; các công cụ, chính sách thiếu nhạy bén, đặc biệt trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế, tác động của cải cách kinh tế và biến đổi khí hậu.
Thứ sáu, sự tham
gia của cơ quan, đoàn thể và xã hội, huy động nguồn lực cho thực hiện chính
sách chưa tốt, còn phân tán. Nhận thức về vai trò của an sinh xã hội của một số
cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa
đúng và chưa đầy đủ, còn tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào Trung ương về
chính sách và kinh phí. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp,
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện an sinh xã hội chưa được quan tâm đúng mức.
Công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia đóng góp của khu vực tư nhân còn
nhiều bất cập, chưa phát huy hết tiềm năng tham gia của người dân, doanh nghiệp
và các đối tác xã hội.
Phương hướng
hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với phát triển kinh tế và
bảo đảm quyền an sinh xã hội cho người dân
Một là, tiếp tục cải
cách thể chể kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm mục tiêu tăng
trưởng GDP trong thời gian tới trên 6,5%/năm để có thêm nguồn lực dành cho an
sinh xã hội.
Hai là, tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục để các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ
và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát
triển xã hội trong tình hình mới, coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên,
lâu dài. Phối hợp tốt hơn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội
trong hoạt động truyên truyền, giáo dục và giám sát, đánh giá.
Ba là, tiếp tục
rà soát các chính sách xã hội hiện hành để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo
hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền
tham gia và thụ hưởng của người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội;
Bốn là, phát
triển thị trường lao động, việc làm bền vững; kết nối cung cầu lao động; phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm;
tăng cường đối thoại lao động, bảo đảm tiêu chuẩn lao động; tăng cường đào tạo
và phát triển kỹ năng cho người lao động, hoàn thiện chương trình đào tạo nghề
cho nông dân nông thôn; triển khai chương trình việc làm công tạo thu nhập tạm
thời ở mức tối thiểu cho lao động nghèo, người thất nghiệp.
Năm là, cải cách
chính sách trợ giúp xã hội. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội; có lộ trình tiếp tục giảm độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội hằng
tháng, mở rộng chính sách trợ giúp xã hội đối với toàn bộ người nghèo, người
cận nghèo, người dân tộc thiểu số; tiếp tục tăng mức hưởng trợ cấp thường
xuyên, tách bạch nhiệm vụ quản lý nhà nước với dịch vụ chi trả; tích hợp chi
trả một lần cho nhiều chính sách khác nhau đối với cùng nhóm đối tượng; nâng
cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; tiếp tục tuyên truyền, vận động và tổ
chức tốt các phong trào “tương thân, tương ái”; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của
cộng đồng, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ
kịp thời.
Sáu là, đổi mới chính
sách giảm nghèo, từ tiếp cận đơn chiều (dựa vào thu nhập) sang đa chiều (dựa
vào các yếu tố khác ngoài thu nhập); tập trung nguồn lực trước hết vào thực
hiện ở những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để giảm nghèo bền vững.
Bảy là, mở rộng đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội, tăng cường chế tài xử phạt không tuân thủ, hỗ
trợ người phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội); thực hiện cải cách bảo hiểm
xã hội để bảo đảm bền vững quỹ và hỗ trợ người nghèo tham gia bảo hiểm xã hội
và bảo hiểm thất nghiệp. Bảo đảm chi ngân sách nhà nước về an sinh xã hội đạt
mức trung bình khu vực Đông Nam Á (7% GDP). Tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài,
như nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), các chương trình viện trợ không
hoàn lại của nước ngoài, nguồn lực xã hội từ các doanh nghiệp, tổ chức và nhân
dân, trong đó nguồn lực của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo./.
Nguyễn Trọng Đàm, Thứ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội
Nhận xét
Đăng nhận xét