Tự do tín ngưỡng, tôn giáo - Mảnh đất màu mỡ của các thế lực thù địch

HẢI LINH

Vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân quyền luôn là tâm điểm mà các thế lực thù địch lợi dụng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bài viết nhận diện một số quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc tự do tôn giáo ở Việt Nam được đề cập trong các Báo cáo thường niên của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) và một số trang mạng xã hội, đồng thời, đưa ra những bằng chứng để phê phán, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc đó, khẳng định những thành tựu của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. 

Những năm qua, do cách nhìn thiên lệch, thiếu thiện chí nên trong các Báo cáo của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ cũng như trên một số trang mạng luôn có những nhận định sai trái, thiếu khách quan về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, như: Ở Việt Nam chưa có tự do tôn giáo thật sự, vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam chưa đạt được quy định của Công ước quốc tế; luật pháp Việt Nam có nhiều điều luật quy định “không rõ ràng” để kiểm soát, hạn chế tự do tôn giáo, sử dụng điều khoản về an ninh quốc gia với các “tội danh mơ hồ” để “đàn áp, hạn chế” tự do tôn giáo; các tôn giáo ở Việt Nam bị buộc im tiếng hay biến thành công cụ của Nhà nước; Nhà nước Việt Nam gây khó khăn cho việc đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo, đặc biệt với các nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số; chính sách nghĩa vụ quân sự của Nhà nước Việt Nam cản trở quyền tu học của thanh niên Khmer; các nhân vật đấu tranh cho tự do tôn giáo luôn bị nhà nước gây khó khăn trong hoạt động, bị hạn chế đi lại; ở Việt Nam có các “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”, .v.v..

Những nhận định trên hoàn toàn mang tính bịa đặt, bóp méo sự thật và xuyên tạc chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam. Trên thực tế, Nhà nước Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn kiện quốc tế liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và đã không ngừng nỗ lực bảo đảm quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân. 

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được ghi nhận tại Điều 24 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Nội dung hiến định này của Việt Nam hoàn toàn tương thích với luật pháp quốc tế(2).

Một số nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản về bảo vệ, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận trong các luật và bộ luật quan trọng của Việt Nam như: Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (Điều 9); Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 116), Luật Giáo dục năm 2019 (Điều 13, 20); Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (Điều 17); Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, v.v..

Theo đó, luật pháp Việt Nam có quy định rất rõ ràng về quyền và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định rõ quyền tự do tin hoặc không tin theo tôn giáo, tự do bày tỏ niềm tin, thực hành nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo, tham gia lễ hội, học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo của mọi người; quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; quyền tự do tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. 

Trong thực tiễn, Nhà nước Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực để đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân­. Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đều được thực hiện các sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình và các cơ sở tôn giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác theo nghi lễ truyền thống của tôn giáo mình. Các cá nhân và tổ chức tôn giáo được Nhà nước tạo thuận lợi và đảm bảo điều kiện sinh hoạt tôn giáo bình thường theo quy định của pháp luật như: tạo điều kiện cho các tôn giáo hoàn thiện cơ cấu tổ chức giáo hội; tạo điều kiện về cơ sở thờ tự và sinh hoạt tôn giáo, về kinh sách phục vụ cho việc tu học và hành đạo, về đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, người hướng dẫn việc đạo, về mở rộng các mối quan hệ quốc tế, .v.v..

Với bất kỳ một quốc gia nào, việc đảm bảo ổn định an ninh, trật tự xã hội, đảm bảo chủ quyền quốc gia cũng luôn phải được đặt lên hàng đầu và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước, phải luôn đi liền với nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Điều này cũng đã được đề cập đến trong Khoản 3 Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. 

Như vậy, Công ước Quốc tế đã khẳng định, quyền tự do tôn giáo trên phương diện pháp lý cũng như các quyền khác, đều bị giới hạn bởi khuôn khổ luật pháp. Do đó, ở mỗi quốc gia, quyền tự do tôn giáo sẽ có những giới hạn riêng. Chẳng hạn, Điều 25 Bộ luật Phân ly của Pháp quy định rõ: “Các cuộc họp để cử hành sự thờ phụng được tổ chức trong khuôn viên của một hiệp hội tôn giáo hoặc được tổ chức ở nơi công cộng phải chịu sự giám sát của chính quyền vì lợi ích của trật tự công cộng”. Ở Việt Nam, Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định rõ những hành vi và những hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng bị nghiêm cấm gồm: “1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; 2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; 4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; 5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”. 

Có thể nói, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo cho mọi người dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch và một số phẩn tử phản động trong tôn giáo đang cố tình phớt lờ những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, phớt lờ những thành tựu về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ đã và đang lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những luận điệu xuyên tạc tự do tôn giáo ở Việt Nam là nằm trong mưu đồ của các thế lực chính trị phản động, muốn lợi dụng các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo như những công cụ mềm để đưa Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng, phục vụ cho lợi ích của các nước lớn, gây sức ép, “mặc cả” Việt Nam đánh đổi các vấn đề về chính trị và lợi ích kinh tế trong quan hệ quốc tế và từng bước cải cách Việt Nam theo hướng tự do, dân chủ theo kiểu phương Tây, từ đó chuyển hóa chế độ chính trị của Việt Nam hoặc có thể tạo cớ công khai can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Do đó, các tầng lớp nhân dân cần tỉnh táo nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; thực hiện tốt chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, tạo sự ổn định để phát triển đất nước theo mục tiêu mà dân tộc ta đã lựa chọn.

Nhận xét