Kỳ Anh
Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù là nước lớn hay bé, giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển, đều xây dựng cho mình những chủ thuyết, bao gồm hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng mang tính lý thuyết nhằm định hướng cho sự phát triển của quốc gia. Ở nước ta, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiến hành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giành độc lập cho dân tộc, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Những
tư tưởng cơ bản của nhà nước pháp quyền đã được V.I.Lênin đề cập và vận dụng
vào thực tiễn xây dựng và củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên
trên thế giới-nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
bao gồm các vấn đề cơ bản như: Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, dân
chủ; nhà nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nhà nước là công cụ của
nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước
pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là quá trình đúc kết, kế thừa
có chọn lọc và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư
tưởng nhân loại và quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta.
Thực
tiễn hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền dưới
sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan, tất yếu mang tính quy luật của
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền dân chủ chân
chính của nhân dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, hội nhập quốc tế. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo là nguyên tắc hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, bảo đảm thành
công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở các khía cạnh: Đảng đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân
thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; Đảng lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ
máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ
chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham mưu cho Đảng; phát
huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân
trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo
vệ Nhà nước.
Thời gian qua, các thế lực thù địch, cơ hội
chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ, phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội, họ rêu rao rằng, ở Việt Nam không
có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị”. Đây là thủ đoạn nham hiểm của các lực lượng
chống đối Đảng Cộng sản lãnh đạo các nước XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu
thập niên 80 của thế kỷ trước. Hiện nay, một số đối tượng vẫn cổ xúy cho thủ
đoạn trên mà nếu không đấu tranh thì có thể để lại những hậu quả khôn lường đối
với đất nước, đối với xã hội, đối với người dân khi vai trò lãnh đạo của Đảng
bị đặt ngoài Hiến pháp.
Đặc
trưng cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng trong từng nước, khi giải quyết các vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước
thì xuất phát từ đặc điểm thực tiễn riêng của mỗi nhà nước. Ở một số nhà nước
trên thế giới, do xuất phát từ thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử hình thành,
có nhà nước theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”, tức là phân lập các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp với những hình thức và mức độ khác nhau. Về bản chất,
dưới khoa học chính trị học, đây thực chất là sự phân chia quyền lực giữa các
đảng phái. Tuy vậy, trên thực tế cũng chưa có một nước tư bản nào thực hiện
đúng nguyên tắc tam quyền phân lập, mà vẫn phải áp dụng linh hoạt, phù hợp với
tình hình của mỗi nước. Trước đây, khi thảo luận vấn đề cải cách tổ chức và
hoạt động của nhà nước ở nước ta, từng có ý kiến cho rằng cần phải xây dựng nhà
nước pháp quyền trên cơ sở nguyên tắc tam quyền phân lập dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Tuy nhiên, Đại hội IX của Đảng đã dứt khoát khẳng định: “Quyền lực Nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục khẳng định vấn đề trên. Như
vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam với các nhà nước tư sản, đó là: Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức quyền lực theo
nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể phân quyền theo lối
phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ có sự phân công
trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc hội với tư cách là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Mô
hình xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền ở nước ta chưa khi nào và không bao
giờ bị coi là bản sao mô hình bộ máy nhà nước pháp quyền giống như một quốc gia
nào đó. Mô hình nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng phù hợp với các
quan điểm của Đảng về việc vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh
nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức nhà nước pháp quyền, ưu
tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hòa với các giá trị truyền
thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước. Do đó, mọi yêu
cầu, đòi hỏi hay kiến nghị Việt Nam phải thực hiện mô hình “tam quyền phân lập”
là không phù hợp, thậm chí tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động thực
hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Quyền
lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng không kém phần phức tạp.
Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện
để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất
nước. Tuy nhiên, trong quá trình nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nước cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền... Vì vậy,
vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong
quản lý nhà nước trên thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng. Ở nước ta, thuật
ngữ “kiểm soát” được ghi trong văn kiện của Đảng và thể chế hóa quan điểm đó,
tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở
nước ta bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN: “Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước
ta không cần phải áp dụng cơ chế tam quyền phân lập, bởi các nhánh quyền lực
của Nhà nước ta không phải nhánh quyền lực của phe nhóm này chống lại phe nhóm
kia, vốn là gốc rễ của cơ chế tam quyền phân lập. Sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong những năm qua là minh
chứng sinh động về Nhà nước ta đã, đang thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân
dân; do nhân dân xây dựng; hoạt động vì mục tiêu ấm no, tự do, hạnh phúc của
nhân dân. Thực tế này sẽ phủ nhận những ý đồ đen tối muốn thay đổi thể chế nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam bằng mô hình nhà nước “tam quyền phân lập” mà thực
chất là muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước, tách rời Nhà nước với chính trị rồi làm suy yếu, tan rã Nhà nước./.
Nhận xét
Đăng nhận xét