Nâng cao chất lượng xây dựng Đảng về tư tưởng trong thời kỳ mới

(TG) - Để hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đảng phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

THỐNG NHẤT NHẬN THỨC VỀ TƯ TƯỞNG VÀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG

Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng ta xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề quyết định đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Theo đó, xây dựng Đảng về tư tưởng giữ vai trò trọng yếu trong quá trình hoạt động của Đảng. Muốn xác định đúng nhiệm vụ và những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng xây dựng Đảng về tư tưởng trong thời kỳ mới, trước hết cần thống nhất nhận thức.

Một là, về tư tưởng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi tư tưởng đều được rút ra từ kinh nghiệm; là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh xuyên tạc hiện thực. Nhưng tư tưởng không đơn thuần là sự phản ánh thế giới khách quan, mà trên cơ sở phản ánh thế giới khách quan, tư tưởng xác định con đường để cải tạo thế giới. Vì vậy, nội dung của bất kỳ tư tưởng nào cũng bao hàm những mục đích và những nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Đó là sự khác nhau căn bản giữa tư tưởng với các hình thức phản ánh khác.

Sau khi xuất hiện, tư tưởng có tính độc lập tương đối và ảnh hưởng tích cực trở lại sự phát triển của hiện thực. Những tư tưởng khác nhau có tác dụng với hiện thực theo hướng khác nhau. Tư tưởng phản động phản ánh xuyên tạc hiện thực sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, còn tư tưởng tiên tiến phản ánh đúng đắn hiện thực và thể hiện lợi ích của các giai cấp cách mạng thì thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ...

Vận dụng những luận điểm của C.Mác, Lênin đã bác bỏ thuyết tự phát, các xu hướng bè phái, vô chính phủ trong phong trào công nhân. Theo Lênin, Đảng Macxit phải đưa lý luận của Chủ nghĩa xã hội (CNXH) vào phong trào công nhân và tổ chức công nhân thành đội quân cách mạng: “...Sự thống nhất tư tưởng của giai cấp dựa trên cơ sở của nguyên lý của chủ nghĩa Mác, được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức, tập hợp hàng triệu lao động thành một đạo quân của giai cấp công nhân”(1).

Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong công tác xây dựng Đảng, Người xác định trước hết là xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị. Người cho rằng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới là “cái cẩm nang thần kỳ” để đưa cách mạng đến thành công. Về tầm quan trọng của lý luận chính trị, Hồ Chí Minh nhắc lại lời của V.Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” “chỉ đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Người cũng nhấn mạnh: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về tư tưởng trước hết là xác lập thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất của thời đại. Người chỉ rõ, cái quyết định bản chất giai cấp công nhân không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà cơ bản ở nền tảng tư tưởng của Đảng - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh, đường lối vì độc lập dân tộc và CNXH..; là học thuyết về sự phát triển xã hội, đồng thời là vũ khí tư tưởng để Đảng làm tròn vai trò tiên phong, lãnh đạo cách mạng.

Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Theo đó, giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng phải là công việc quan trọng hàng đầu: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị” thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”(2); “Phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết trong những cán bộ cốt cán của Đảng”(3). Xây dựng Đảng về tư tưởng không chỉ làm cho lý luận, thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin thấm nhuần trong toàn Đảng, giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, mà còn làm cho Đảng và mỗi đảng viên không ngừng nâng cao ý chí phấn đấu, củng cố niềm tin vào con đường cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc, phản động...

Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ để thấm nhuần chủ nghĩa này, mà phải biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Phải nắm vững phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật; sáng tạo; không máy móc, giáo điều, rập khuôn, bảo thủ. Theo đó, mỗi đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, trau dồi tư tưởng chính trị, đạo đức; nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; thực hiện tốt việc nêu gương, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tế...

Xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng không ngoài mục đích làm cho toàn Đảng thống nhất một ý chí, đoàn kết, cùng toàn dân đồng lòng thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối, chính sách...

Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức là trọng trách của công tác tư tưởng.

Hai là, về công tác tư tưởng.

Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.

Đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của mình; cùng với công tác tổ chức trực tiếp góp phần xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiến hành công tác tư tưởng nhằm vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng cơ sở khoa học, thực tiễn để hình thành cương lĩnh, đường lối, chính sách trong từng thời kỳ; đem lại cho cán bộ, đảng viên và nhân dân sự giác ngộ về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, thành nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng; cổ vũ, động viên tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Công tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc hình thành thượng tầng kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; giáo dục, bồi dưỡng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện...

Lịch sử hơn 90 năm lãnh đạo công tác tư tưởng Đảng ta đã tổng kết, rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là những nguyên tắc công tác tư tưởng, bao gồm: nguyên tắc tính Đảng; nguyên tắc tính khoa học; nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn; nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư, cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.

Nguyên tắc “tính Đảng” là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng; là biểu hiện tập trung của tính giai cấp, có nghĩa tính Đảng là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất. Theo đó, khi tiến hành các hoạt động tư tưởng, cán bộ phải đứng vững trên lập trường giai cấp, luôn xuất phát từ thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, coi đó là cơ sở khoa học, mục đích và nội dung cốt lõi của công tác tư tưởng; phải bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác mọi tư tưởng thù địch, sai trái...

Nguyên tắc “tính khoa học” trước hết phải tuân thủ những quy luật vận động biến đổi của tư tưởng, tâm lý con người và của xã hội; phải biết dựa vào thành tựu của các khoa học khác để từng bước nâng cao trình độ khoa học của hoạt động tư tưởng. Tính khoa học đòi hỏi khi tiến hành công tác tư tưởng phải quán triệt thế giới quan, phương pháp luận Mác-xít, trước hết là quan điểm lịch sử cụ thể đối với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội; khi xác định và lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện, chủ thể làm công tác tư tưởng phải tính đến không chỉ tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và thế giới, mà còn phải tính đến đặc điểm dân tộc, địa phương, trạng thái ý thức xã hội, tâm lý, tư tưởng, tình cảm… của từng nhóm xã hội, từng con người cụ thể. Đồng thời, phải thường xuyên đổi mới, sáng tạo những nội dung, hình thức và phương pháp phù hợp với sự vận động và phát triển; biết vận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ và kịp thời sử dụng những phương tiện hiện đại vào công tác tư tưởng.

Tính khoa học của công tác tư tưởng còn được thể hiện ở tính chân thật. Tính chân thật đảm bảo sức mạnh cho công tác tư tưởng, là tiêu chuẩn quan trọng của công tác tư tưởng. Theo đó, khi đánh giá tình hình phải kiên quyết khắc phục bệnh chủ quan, phiến diện, một chiều, tô hồng hoặc bôi đen, chạy theo thành tích... Tính khoa học còn được thể hiện ở nghệ thuật nói, nghệ thuật viết và phương pháp, phương thức, tình cảm giàu tính sáng tạo nhằm đem lại hiệu quả cao.

Nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận với thực tiễn”: Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và trở lại phục vụ nhiệm vụ thực tiễn, soi đường cho thực tiễn cách mạng. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận. Nguyên tắc này đòi hỏi công tác tư tưởng phải gắn với thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng, thực tiễn đấu tranh của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải luôn nắm được tư tưởng, tâm trạng của các tầng lớp xã hội trước mỗi sự kiện, chủ trương, chính sách... Chỉ có gắn chặt với thực tiễn mới kịp thời phát hiện được những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để tổng kết, nhân rộng; phát hiện kịp thời những yếu kém, khuyết điểm, sai lầm để khắc phục, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách. Chỉ gắn với thực tiễn, công tác tư tưởng mới khắc phục được “bệnh” giáo điều, lý thuyết suông, nhất là tệ chạy theo thành tích, báo cáo không trung thực. Tổng kết thực tiễn là phương pháp căn bản thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng nhằm khắc phục chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.

Nguyên tắc “toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư, cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan đơn vị” xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ: Đảng ta là chủ thể của công tác tư tưởng. Nguyên tắc này được xác lập từ nội hàm của công tác tư tưởng với 3 quá trình: 1) Phát triển, vận dụng sáng tạo hệ tư tưởng thành cương lĩnh, đường lối, chính sách; 2) Truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chính sách; 3) Hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách. Theo đó, bí thư, cấp ủy là người lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng; ban tuyên giáo là cơ quan tham mưu của cấp ủy về những lĩnh vực liên quan, đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên giáo; đội ngũ cán bộ chuyên trách là các chiến sỹ xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; đảng viên phải trực tiếp tham gia các quá trình làm công tác tư tưởng của tổ chức Đảng nơi mình sinh hoạt, đồng thời trực tiếp làm công tác tư tưởng với quần chúng, tích cực tu dưỡng, rèn luyện để làm gương cho quần chúng noi theo.

CẦN TIẾP TỤC XÁC ĐỊNH RÕ NỘI HÀM XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH VỀ TƯ TƯỞNG

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định những nội dung liên quan đến xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong đó, công tác tư tưởng phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, làm cho tư tưởng tiến bộ tích cực thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu... Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính Đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời, hiệu quả; nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dự báo sát, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ công tác tuyên truyền bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng. Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kết hợp chặt chẽ hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị. Tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường chính trị...

Hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng được Đảng ta tiếp tục xác định và bổ sung tại Đại hội XIII là đúng đắn, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong phương hướng và chưa xác định rõ mục tiêu, nội dung trong hệ thống 4 nhiệm vụ giải pháp nhằm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng.

Theo chúng tôicần xác định rõ nội hàm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới :

Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn vững mạnh về tư tưởng chính trị thì phải “có chủ nghĩa làm cốt”, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy. Đại hội VII của Đảng đã xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho cách mạng. Do đó, nội hàm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới là phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như thế giới quan, phương pháp luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thấm nhuần trong toàn Đảng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên không những thấm nhuần mà còn biết vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, xác định, hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách.

Thứ hai, phải tiếp tục xây dựng, triển khai thực chất, hiệu quả, sâu, rộng những giải pháp, biện pháp làm cho toàn Đảng thực sự là một ý chí vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, đồng lòng cùng toàn dân thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng. Phải tăng cường về “chất” công tác giáo dụchướng dẫn đảng viên thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, trau dồi tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; thực sự nghiêm túc, tự giác trong tự phê bình và phê bình; thực sự làm gương, nêu gương trước quần chúng.

Thứ ba, trong hệ thống 4 nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng, phần giải pháp còn định tính. Vì vậy, cần định lượng từng biện pháp, xác định rõ tổ chức, cơ quan nào phải thực hiện, thời hạn hoàn thành. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng thì phải có giải pháp đột phá trong củng cốkiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tham mưu về công tác tư tưởng từ Trung ương đến cơ sở; có giải pháp khả thi về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu công tác tư tưởng; chú trọng giải pháp tổng thể trong quy hoạchđào tạo đội ngũ cán bộ lý luận, giảng viên lý luận, báo cáo viên, phóng viên - biên tập viên báo chí, văn nghệ sĩ...

Thứ tưđề nghị Ban Bí thư xem xét, có quyết định về việc: các cấp ủy thực hiện giao ban tư tưởng định kỳ và đột xuất để nắm tư tưởng, phối hợp chỉ đạo các binh chủng tiến hành các hoạt động tư tưởng phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời chỉ đạo xử lý các tình huống, điểm nóng tư tưởng… Định kỳ, các đồng chí thường trực cấp ủy phải xuống cơ sở để nắm tư tưởng và đối thoại với nhân dân.

Thứ năm, trong đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng công tác tư tưởng cần bổ sung nguyên tắc: Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị./.

Hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng được Đảng ta tiếp tục xác định và bổ sung tại Đại hội XIII là đúng đắn, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới.

PGS. TS. ĐÀO DUY QUÁT
Nguyên Phó trưởng ban Thường trực
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương

_______________

(1) Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách Khoa. H, 2003, t.4, tr.705.

(2) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính trị Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị. H, 2019.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.11, tr.43.

Nhận xét