Giá trị nguyên tắc dân tộc hóa của Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) trong bối cảnh hiện nay

TCCS - Dân tộc hóa là một trong ba nguyên tắc(1) xây dựng văn hóa được xác định trong Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943). Đây là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa độc lập, là cơ sở cho tự cường dân tộc, giải phóng đất nước. Sau 80 năm, nguyên tắc này vẫn còn nguyên giá trị, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trong bối cảnh mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, năm 1959 _Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh

“Dân tộc hóa” để giải phóng dân tộc

Có thể thấy, Đề cương về văn hóa Việt Nam (được viết năm 1943, gọi tắt là Đề cương) thực sự là bản cương lĩnh về văn hóa của Đảng ta. Lần đầu tiên, Đảng ta đưa ra quan niệm về văn hóa theo quan điểm mác-xít, văn hóa được xác định là một trong ba mặt trận (cùng với mặt trận chính trị và kinh tế) trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo nên bước ngoặt trong nhận thức về vai trò và sứ mệnh của văn hóa đối với đời sống xã hội.

Trong Đề cương, nguyên tắc dân tộc hóa được hiểu là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”(2). Văn hóa trong Đề cương bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đặt trong bối cảnh năm 1943, tức là khi đất nước ta còn đang chịu ách đô hộ của ngoại xâm, thì mục tiêu quan trọng nhất của toàn dân tộc là giành được độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trước đó, nhà yêu nước Phan Châu Trinh đã nhận ra sức mạnh và cả những điểm yếu của đất nước nói chung (gồm cả văn hóa) trong thời kỳ này. Chính vì thế, ông chủ trương xây dựng một đất nước phát triển trên cơ sở “khai dân trí - chấn dân khí - hậu dân sinh”, ở đó, mở mang nhận thức, tri thức của nhân dân; chấn hưng ý chí, tinh thần, khí phách của nhân dân; đồng thời, làm cho đời sống của nhân dân được ấm no chính là cách xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhà cách mạng Phan Bội Châu cũng từng nhấn mạnh nội dung: Độc lập dân tộc là mục đích tối cao, duy nhất; tất cả những cách thức, đường lối, chiến lược, lực lượng nào có khả năng thúc đẩy thực hiện được mục đích độc lập dân tộc đều được hoan nghênh; lợi ích dân tộc, thể diện dân tộc là trên hết(3). Từ đó, chúng ta thấy rằng, huy động mọi nguồn lực cho mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc, với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” chính là mục đích của các phong trào yêu nước, đặc biệt là của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên thực tế, văn hóa đã tạo nên sức mạnh thực sự cho dân tộc ta, tạo nên sự thống nhất trong nhận thức về lòng yêu nước. Ngay những ngày tháng đầu tiên khi đất nước độc lập, một trong những hoạt động sớm nhất là thành lập các hội văn hóa cứu quốc ở các tỉnh(4). Ngày 16-11-1946, thư của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước, xác định văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc như sau: “1. Trước cuộc cách mạng, văn hóa cách mạng đóng vai trò khá quan trọng là tuyên truyền giác ngộ, cổ động nhân dân khởi nghĩa giành độc lập; 2. Trong cuộc cách mạng, văn hóa cách mạng phải kích thích tinh thần khởi nghĩa, làm sôi nổi nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc nhân dân nổi dậy tất cả giành lấy chủ quyền; kháng chiến giữ vững chủ quyền ấy; 3. Sau cuộc cách mạng, văn hóa cách mạng phải động viên mọi lực văn hóa của dân tộc; hăng hái tham gia kiến quốc; gây đời sống mới, gột rửa những tư tưởng, tập quán hủ bại, giáo dục nhân dân, làm cho dân tộc có một nền văn hóa tiến bộ”(5). Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ cụ thể của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này là: “Phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc; củng cố đức tin của dân tộc ở sự nghiệp dân tộc giải phóng”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu Tổ quốc trên hết như một cách để huy động nhân dân, lấy lợi ích của Tổ quốc để liên kết mọi người.

Như vậy, “dân tộc hóa” chính là cách khơi dậy và phát huy lòng yêu nước thông qua nhận thức về những giá trị chung, nguồn gốc tổ tiên chung của dân tộc, từ đó, hình thành sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Lịch sử cho thấy, đất nước ta đã trải qua nhiều gian khổ, hy sinh để chiến đấu và chiến thắng trước nhiều kẻ thù xâm lược không phải nhờ khí tài quân sự hiện đại, mà chính là nhờ sức mạnh vô song của lòng yêu nước. Từ những câu ca dao, tục ngữ về lòng yêu nước, những câu chuyện lịch sử, phong tục, tập quán gắn với các Vua Hùng, các anh hùng dân tộc... đến những bản “tuyên ngôn” khẳng định chủ quyền dân tộc, như “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”, hay bản “Tuyên ngôn độc lập” được Bác Hồ đọc trong ngày 2-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Tất cả đã in sâu trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam, khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của dân tộc ta được trao truyền qua lớp lớp thế hệ. Trong thời đại Hồ Chí Minh, lòng yêu nước và ý chí quyết tâm gìn giữ nền độc lập, tự do đó được tiếp nối và phát huy. Ngày 18-9-1954, tại Đền Hùng (tỉnh Phú Thọ), nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ đại đoàn quân tiên phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô, Bác Hồ kính yêu đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước!”. Câu nói không chỉ thấm thía đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của mỗi người dân Việt Nam, mà còn thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia - dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật, những bài hát ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi lãnh tụ là nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao góp phần làm nên thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và cũng chính là kết quả tất yếu của tư tưởng dân tộc hóa. Những lời ca “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “ta tự hào đi lên ôi Việt Nam”, “Đảng đã cho ta cả mùa xuân của cuộc đời, Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai” cùng biết bao tác phẩm văn học, nghệ thuật... đã là niềm cảm hứng cho bao thế hệ thanh niên tình nguyện “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” với niềm tin vào tương lai thống nhất của đất nước, Bắc - Nam sum họp một nhà.

Đặt trong mối quan hệ với hai nguyên tắc còn lại là đại chúng hóa và khoa học hóa, chúng ta càng thấy rõ hơn ý nghĩa của nguyên tắc dân tộc hóa. Một dân tộc mạnh phải dựa trên sức mạnh của quần chúng. Quan tâm chăm lo đến quần chúng nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên sự phát triển của khoa học, giáo dục sẽ giúp dân tộc ta vững vàng và tự tin hơn trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu thực hiện nghi lễ tại Đền Thượng trong Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng _Ảnh: TTXVN

“Dân tộc hóa” để xác định chủ quyền quốc gia về văn hóa

Cùng với chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền văn hóa cũng là một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đề cao văn hóa dân tộc chính là cách chúng ta xác định chủ quyền quốc gia về văn hóa, cũng như đưa văn hóa trở thành sức mạnh để gìn giữ chủ quyền ấy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh “đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”(7).

Trong Đề cương, Đảng ta đã xác định 3 công việc phải làm (tranh đấu về học thuyết, tư tưởng để làm cho học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng; tranh đấu về tông phái văn nghệ để làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng; tranh đấu về tiếng nói, chữ viết), trong đó, tiếng nói và chữ viết được xem như một sự khẳng định văn hóa rõ ràng nhất. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện để giao tiếp, là công cụ để tư duy, mà còn được xem là “linh hồn của dân tộc”. Sinh thời, khi nói về ngôn ngữ tiếng Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”(8). Việc bảo vệ ngôn ngữ tiếng Việt cũng là bảo vệ văn hóa đất nước, thể hiện nguyên tắc dân tộc hóa trong xây dựng văn hóa Việt Nam.

Ở một cách tiếp cận văn hóa rộng hơn, trải qua 80 năm, nguyên tắc dân tộc hóa vẫn còn nguyên giá trị và được bổ sung những nội dung mới, phù hợp hơn với hoàn cảnh phát triển đất nước. Năm 2005, Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ra Công ước “Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa” như một cách để toàn nhân loại trân trọng văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Chính việc tôn trọng sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa giúp chúng ta hiểu nhau hơn, góp phần gìn giữ hòa bình thế giới, làm giàu có hơn kho tàng văn hóa, tri thức của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa ngày 24-11-2021: Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn.

Đất nước hòa bình, văn hóa mang sứ mệnh mới. Từ cách tiếp cận của Đề cương là: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”(9), các quan điểm chỉ đạo của Đảng về văn hóa được thể hiện rõ trong các nghị quyết, tập trung nhấn mạnh vào việc xây dựng một nền văn hóa mới, ở đó, văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, đồng thời là hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những cơ hội và thách thức từ quá trình hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường vừa giúp đất nước ta có thêm điều kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, vừa đe dọa các giá trị văn hóa dân tộc, vì thế, năm 1998, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Ngày 16-6-2008, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trong đó nhấn mạnh mục tiêu xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự lựa chọn sáng suốt trong việc kiên trì bảo vệ những giá trị văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập. “Hòa nhập nhưng không hòa tan”, xác định bảo vệ văn hóa cũng là bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời chủ động lựa chọn tinh hoa văn hóa thế giới, làm giàu có hơn cho văn hóa của dân tộc, thể hiện tư tưởng đổi mới trong phát triển văn hóa.

Đánh giá về những nỗ lực phát triển văn hóa, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, các hoạt động văn hóa, nhất là lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, lĩnh vực văn học, nghệ thuật, lĩnh vực thông tin đại chúng đã có nhiều thành tựu trong việc khẳng định, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật và các sản phẩm truyền thông để tuyên truyền, cổ vũ, khơi dậy khát vọng về một Việt Nam hùng cường, hạnh phúc. Rõ ràng, những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, từ những sinh hoạt lễ hội tới những bài hát, bộ phim, bức tranh, vở kịch... không chỉ tôn vinh những giá trị, hình ảnh đẹp về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam, mà còn giúp chúng ta có thêm niềm tự hào, tự tin và bản lĩnh văn hóa để khẳng định mình trong quá trình hội nhập quốc tế, mà ở đó, bất cứ một quốc gia nào không khẳng định được bản sắc và giá trị văn hóa của mình thì sẽ dễ bị hòa tan, bị “xâm lăng văn hóa”.

“Dân tộc hóa” để tạo sức mạnh nội sinh cho dân tộc

Sức mạnh nội sinh bắt nguồn từ những giá trị văn hóa dân tộc, được kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành tài sản quý giá của dân tộc ta. Để hình thành nên sức mạnh nội sinh cần cả quá trình lâu dài, bền bỉ, không ngừng đấu tranh, lựa chọn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của quốc gia - dân tộc. Với việc lấy lợi ích dân tộc làm trung tâm, đất nước ta đã tạo ra nhiều kỳ tích. Trong Đề cương, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(10). Trong bối cảnh hiện nay, phát triển văn hóa cần lan tỏa sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị, kinh tế. Chủ trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa chính là một trong những nhiệm vụ đột phá, thực hiện theo đúng xu thế và hoàn cảnh đất nước. Các ngành công nghiệp văn hóa, dựa vào tài năng sáng tạo, nguồn lực văn hóa, công nghệ và kỹ năng kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, không chỉ đưa những giá trị văn hóa vào các sản phẩm kinh tế để tạo ra lợi thế cạnh tranh, lợi ích vật chất, mà còn kể câu chuyện hấp dẫn, thú vị, lan tỏa những hình ảnh đẹp về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam, qua đó giúp chúng ta hình thành nên sức mạnh mềm, nội sinh của dân tộc.

Chương trình nghệ thuật khai màn Tuần lễ Festival Huế 2022 với chủ đề "Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển" _Nguồn: zingnews.vn

Để khẳng định sức mạnh nội sinh của dân tộc, chúng ta cần lưu tâm đến những định hướng của Đề cương, đó là “phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm”(11). Hiện nay, chúng ta đang ở trong một bối cảnh phức tạp với nhiều biến động khó lường trên thế giới. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, của các phương tiện truyền thông mới với internet và mạng xã hội, đã khiến sự phát triển văn hóa gặp không ít khó khăn. Nguyên tắc phát triển văn hóa cần tránh bảo thủ để lựa chọn được tinh hoa văn hóa thế giới, tránh lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm để hình thành nên một môi trường văn hóa tích cực, văn minh, lành mạnh, thuận lợi cho sự phát triển đất nước.

Thực tế cho thấy, quá trình hội nhập quốc tế tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho các quốc gia trong phát triển kinh tế - xã hội. Giờ đây, thế giới đã trở nên “phẳng” và trở thành một “ngôi làng toàn cầu” khiến cho chúng ta có thể cập nhật thông tin, kiến thức nhanh hơn, nhiều hơn. Chúng ta đã cùng đồng thời tận hưởng, cập nhật, không bị lạc hậu trong sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật với mọi người dân trên thế giới. Điều đó chứng minh quá trình hội nhập sâu, rộng của đất nước ta vào đời sống thế giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa, nghệ thuật. Đời sống văn hóa, nghệ thuật cũng trở nên phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu thưởng thức ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân trong nước. Tuy nhiên, rõ ràng, chúng ta đang gặp phải những vấn đề nhất định trong quá trình hội nhập quốc tế, như việc tiếp thu văn hóa, nghệ thuật nước ngoài chưa thực sự chọn lọc, việc giới thiệu văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam ra thế giới còn hạn chế,... Điều này dẫn đến nguy cơ bị “xâm lăng văn hóa” khi người dân, đặc biệt là giới trẻ, say mê với những bộ phim, câu chuyện, bài hát, thời trang hay các phong cách sống của nước ngoài, mà quên đi những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Đây là thực trạng đáng báo động, không chỉ dẫn đến việc mai một các giá trị văn hóa dân tộc, mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển đất nước. Đây cũng chính là một trong những lý do quan trọng để chúng ta có thêm quyết tâm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để tạo nên sức mạnh tổng hợp, bản lĩnh, sự tự tin trong quá trình hội nhập quốc tế.

Có thể thấy, những quan điểm cơ bản về sự phát triển văn hóa ngày nay, như văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội,... đã bắt nguồn từ Đề cương với ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa. Trải qua thời gian, cùng với những chặng đường phát triển từ mục tiêu giành lại độc lập cho dân tộc, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, nguyên tắc dân tộc hóa đã đóng góp quan trọng trong giải phóng dân tộc, xác định chủ quyền quốc gia, tạo sức mạnh nội sinh cho dân tộc. Ngày nay, chúng ta cần bổ sung những thông điệp, nội dung mới cho nguyên tắc dân tộc hóa, để từ đó hình thành sức mạnh nội sinh, hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam./.


PGS, TS BÙI HOÀI SƠN

Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội

------------------------

(1) Ba nguyên tắc là dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 319
(3) Xem: Lê Thị Lan: “Chủ nghĩa dân tộc của Phan Bội Châu dưới nhãn quan triết học”, Tạp chí Triết học, số 11 (186), 2006
(4), (5), (6) Xem: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 11, 144, 145
(7) Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 72
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 465
(9), (10) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 320, 316
(11) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 319

Nhận xét