HH
Quan điểm cho rằng “chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” là sai lầm bởi vì:
Một là sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ
của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài
người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai là chế độ
Xôviết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (1917) và sau này
trên toàn Liên bang Xôviết, đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính
trị - xã hội trước đó. Chính quyền Xôviết thực sự là chính quyền của công,
nông, binh và của nhân dân lao động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh
thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười,
lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể
hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của phát xít Đức - Nhật, dẫn tới sự
ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến
cho Đảng và Nhà nước Xôviết ngộ nhận là chủ nghĩa xã hội đã xây dựng xong và chủ
trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng
thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xôviết cũng đã bắt đầu hé lộ, nhất
là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó.
Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xôviết đã đạt được
là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Ba là sau khi
phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải tổ; các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm mục tiêu tăng tốc
về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm của Liên Xô và các
nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng
vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động trong đông đảo quần chúng,
dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền bị các thế lực thù địch
cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ lãnh đạo, cuối cùng,
chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính trị, những kẻ chống
chính quyền Xôviết từ rất sớm. Không thấy nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ
là ở đây mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính quyền Xôviết cũng là sai lầm
trong cách nhìn lịch sử.
Bốn là bên cạnh
những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực
tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ
trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt
đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược “diễn biến hòa bình” để
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều
nước khác đã sa vào cái bẫy này mà không tự giác phát hiện. Về sự lựa chọn độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Năm là trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam học
tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa đi trước nhưng hoàn toàn không có sự
sao chép. Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là mô hình
Xôviết của Liên Xô bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ một bên là từ cơ sở của chế
độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói, Bác chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta được
tự do, hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chủ nghĩa
xã hội đối với Bác là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhầm lẫn
mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mô hình Xôviết là một sự sai lầm
lớn.
Nhận xét
Đăng nhận xét