KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN LỊCH SỬ

 Phạm Trung

Chiến thắng Hà Nội - “Điện Biên Phủ trên không” là một trang sử vàng chói lọi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, một số phần tử phản động lại rêu rao rằng: Chiến thắng Hà Nội -“Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 của Việt Nam chẳng qua là do sự giúp đỡ của nước ngoài. Sự thật có phải như vậy không? Không ai có thể phủ nhận được lịch sử!

Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta nói chung, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” nói riêng giành được thắng lợi luôn có sự giúp đỡ, ủng hộ không nhỏ về vật chất, tinh thần của bạn bè quốc tế, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đây là một thực tế không thể phủ nhận. Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta luôn biết ơn, không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn ấy. Tuy nhiên, nếu cho rằng, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là do sự giúp đỡ của nước ngoài thì lại là một quan điểm phiến diện, một nhận định chủ quan.

Trước khi tiến hành Chiến dịch Linebacker II, chính quyền của Tổng thống Richard Nixon đã nắm rất chắc tình hình Việt Nam. Hoa Kỳ biết chắc chắn rằng, vũ khí hiện đại nhất của Việt Nam lúc bấy giờ là tên lửa phòng không SAM-2 (được Liên Xô viện trợ). Hoa Kỳ hiểu rất rõ về SAM-2 thông qua chiến lợi phẩm do Israel - đồng minh của Mỹ thu được từ quân Ả Rập năm 1967. Năm 1970, các loại radar phòng không chủ yếu của Quân đội nhân dân Việt Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt, và đã chế tạo ra các thiết bị gây nhiễu rất hiệu quả. Không quân Mỹ tự tin rằng hệ thống phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ không thể chống trả được. Máy bay B-52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của phòng không - không quân Việt Nam, cuộc tập kích của B-52 vào miền Bắc Việt Nam sẽ chỉ như “một cuộc dạo chơi trên bầu trời Hà Nội” với tổn thất ở mức tối thiểu.

Về phía Việt Nam, vào thời điểm năm 1972, SAM-2 là loại tên lửa phòng không duy nhất có trong trang bị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được sản xuất vào giữa thập niên 1950, SAM-2 đã tỏ ra khá lạc hậu, và còn bị lộ bí mật công nghệ. Khi đó, Liên Xô đã thay thế loại tên lửa này bằng những hệ thống SAM-4SAM-5SAM-6 có tính năng cao hơn nhiều. Tuy nhiên, do chính sách hòa giải với Mỹ nên Liên Xô đã không viện trợ những loại tên lửa mới này cho Việt Nam.

Sớm dự báo được âm mưu, thủ đoạn không kích Hà Nội bằng B-52 của Mỹ, dưới sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu, nghiên cứu cách đánh, kiên quyết bắn rơi máy bay chiến lược B-52. Từ cuối năm 1968, qua trinh sát, theo dõi, nghiên cứu, Quân chủng Phòng không - Không quân đã phát hiện ra một loại radar máy bay B-52 không gây nhiễu được. Cuối năm 1971, ta đã có một cải tiến kỹ thuật quan trọng: Dùng loại radar không bị máy bay B-52 gây nhiễu ghép nối với đài điều khiển phục vụ tên lửa đánh B-52. Tháng 10 năm 1972, Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn tất cách đánh B.52, sẵn sàng ứng phó với bất kỳ cuộc không kích nào bằng B-52 của Mỹ đối với Hà Nội.

Những luận cứ trên chưa thể mô tả hết sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương; tinh thần chủ động, sáng tạo, dũng cảm, mưu trí trong chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu của quân và dân ta nhưng cũng đủ để bác bỏ quan điểm cho rằng: Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là do sự giúp đỡ của nước ngoài. Đây là cách đánh giá phiến diện, ngụy biện hòng xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

Nhận xét