Khuê Minh
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, giữ vững vai trò lãnh đạo với sự nghiệp cách mạng, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải luôn đề cao “tự phê bình và phê bình”. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Tự phê bình và phê
bình là nhu cầu nội tại của tổ chức đảng và đảng viên, song muốn tự phê bình và
phê bình phát huy được tác dụng, hiệu quả, đòi hỏi phải thực hành một cách
thường xuyên, nghiêm túc; nếu không thực hành thường xuyên, nghiêm túc thì dù
đó là vũ khí sắc bén cũng không tiêu diệt được “kẻ thù”, dù có là “thần dược”
cũng không trị được bệnh trong mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Vì vậy,
trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình”. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Đảng
cùng với việc thực hành dân chủ thì “tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất”
để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, góp phần xây dựng
Đảng thành một khối thống nhất, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức;
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang mà nhân dân tin yêu giao phó. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng phong kiến, thực dân. Đội ngũ đảng viên của Đảng phần đông xuất
thân từ nông dân và nhiều giai tầng khác nhau, mang theo những đặc điểm tư
tưởng, tâm lý, lối sống khác nhau, dễ nảy sinh những mâu thuẫn trong Đảng. Đó
không phải là mâu thuẫn đối kháng, nhưng là nguy cơ gây mất đoàn kết, không tập
trung, thống nhất được tư tưởng, trí tuệ trong Đảng. Mặt khác, Đảng ta là đảng
cầm quyền “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, đảng viên có chức, có
quyền nếu không nghiêm túc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng rất dễ nảy
sinh những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, độc
đoán, chuyên quyền, gia trưởng, quan liêu, xa rời quần chúng… Đảng viên cũng là
con người, không phải là thánh thần, có hoạt động thì khó tránh khỏi sai lầm,
ai cũng có cái tốt, cái xấu, chỉ khác nhau ở chỗ nặng hay nhẹ và trạng thái
biểu hiện của nó, nhưng đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một
người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính
xấu. Muốn vậy cần tiến hành tự phê bình và phê bình ráo riết, thường xuyên. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng, “một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn,
chắc chắn, chân chính”.
Trong khi thực hành
tự phê bình và phê bình phải có thái độ kiên quyết không khoan nhượng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và sửa chữa có khi dễ, nhưng có khi cũng khó
khăn, đau đớn vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì nguyên nhân khác. Đó là một cuộc
đấu tranh”. Vì thế thực hiện tự phê bình và phê bình “ta phải tự phê bình ráo
riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng
chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”. Tự phê bình và phê bình phải đúng
mức, thật thà không nể nang, không thêm bớt, không hình thức, hời hợt, quanh
co, chiếu lệ... Trên thực tế những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham
ô, tham nhũng, hủ hóa, vi phạm tư cách đảng viên, suy cho cùng nguyên nhân là
do không thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và tiếp thu phê bình. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của chúng ta
thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc để bệnh ngày
càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh. Phát hiện càng sớm, điều trị bệnh càng
chóng khỏi; để bệnh nặng rất khó chữa, thậm chí có khi không chữa nổi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng chỉ rõ một số biểu hiện chưa đúng trong tự phê bình và phê bình, đó là:
“Vẫn có một số ít đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà trở nên kiêu
ngạo, công thần, tự cao, tự đại. Họ phê bình người khác mà không muốn người
khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà,
nghiêm chỉnh. Họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín. Họ không lắng
nghe ý kiến của quần chúng. Họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng. Họ không biết
rằng: Có hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi sai lầm. Chúng ta không sợ
sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt
thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu
nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và
thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi”. Tất cả những hiện tượng trên là biểu
hiện sự nhận thức chưa đúng bản chất của tự phê bình và phê bình với tư cách là
một nguyên tắc trong sinh hoạt đảng.
Vận
dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải thường xuyên nâng cao
nhận thức, đề cao trách nhiệm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy đảng. Tự
phê bình và phê bình chỉ có thể đem lại hiệu quả thiết thực khi cấp ủy đảng các
cấp có nhận thức đúng và thường xuyên tổ chức thực hiện nghiêm túc ở cấp mình.
Nhận thức không đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của nguyên tắc tự phê bình và
phê bình tất dẫn tới việc thực hành tự phê bình và phê bình không thường xuyên,
nghiêm chỉnh, thậm chí buông lỏng, coi nhẹ hoặc hình thức, qua loa, chiếu lệ…
Nhận xét
Đăng nhận xét