Chuyển đến nội dung chính

Bài 1: Những "cán bộ trên cây" và bài học "dân là gốc"

LTS: Cùng với sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng và Chính phủ, những năm qua, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các địa phương trên địa bàn Tây Nguyên thường xuyên củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Các địa phương đã có nhiều chủ trương hướng tới mục tiêu thực hiện chính sách dân tộc và đặt công tác dân tộc trong mối quan hệ gắn bó với chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) của cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, thiếu sót từ cơ sở, nhất là hạn chế của một bộ phận đội ngũ cán bộ.

Quá trình tìm hiểu tình hình ở cơ sở, chúng tôi biết thêm cụm từ khá mới, đó là “cán bộ trên cây”. Cụm từ mà đồng bào dùng để ám chỉ một số cán bộ làm công tác vận động tuyên truyền nhưng theo lối một chiều, nội dung chung chung, đại khái. Lối tuyên truyền "qua loa" đó khiến nhiều chủ trương, đường lối của Đảng không đến được với dân, các chính sách mới ưu tiên cho đồng bào DTTS chưa được giải thích rõ ràng, thấu đáo nên đồng bào DTTS băn khoăn, trăn trở, thậm chí bức xúc...

Đồng bào không tin “cán bộ trên cây”

Tháng 9, khí hậu Tây Nguyên mát lành, dễ chịu, bởi những cơn mưa. Trong ngôi nhà đơn sơ trên phố Trường Sơn (phường Yên Thế, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai), trò chuyện với chúng tôi, Trung tướng Nguyễn Thành Út, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 5 cho biết: “Những năm qua, các thế lực thù địch, phản động ra sức chống phá bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, chúng dùng kế lừa mị dân, kích động đồng bào DTTS tụ tập, gây rối, vượt biên trái phép... Tuy nhiên, công bằng mà nói một phần cũng do yếu kém từ trong nội bộ của chúng ta. Đó là một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện xa dân, thiếu sâu sát bám nắm cơ sở...”.

Tây Nguyên có 54 dân tộc cùng sinh sống, dân số khoảng hơn 5,7 triệu người, trong đó đồng bào các DTTS chiếm 33%. Các cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên chủ yếu sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện KT-XH gặp nhiều khó khăn... Một bộ phận đồng bào DTTS còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa chịu khó lao động, sinh hoạt chưa tiết kiệm... Theo đó, Trung tướng Nguyễn Thành Út cho rằng: Một khi “cái chữ trong đầu” chưa nhiều, “hạt cơm trong bụng” có lúc còn thiếu, mà các cấp chính quyền chưa lo được cho dân, thì các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền “tấn công trực diện” vào cái bụng của đồng bào, thì đồng bào DTTS dễ nghe theo và làm theo để họ “có cái ăn, cái mặc” là điều dễ hiểu...

Trò chuyện với các đồng chí trong Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai, chúng tôi được biết thêm một cụm từ khá mới, đó là “cán bộ trên cây”. Sở dĩ đồng bào DTTS gọi “cán bộ trên cây” là họ dùng để ám chỉ một số cán bộ ở cơ sở tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng thông qua hệ thống loa phát thanh, được treo trên những cây cao, trụ điện ở các buôn, làng... Thực chất, đây là một trong những phương pháp tuyên truyền cơ bản ở cơ sở, mà đến nay vẫn được các địa phương trong cả nước vận dụng. Tuy nhiên, tại sao đồng bào DTTS Tây Nguyên lại gọi là “cán bộ trên cây”? Theo giải thích của một số cán bộ địa phương, cách gọi này thể hiện thái độ không hài lòng của đồng bào về thực trạng cán bộ làm công tác vận động tuyên truyền theo lối áp đặt một chiều. Cách tuyên truyền như vậy sẽ không trực tiếp tiếp xúc, đối thoại với đồng bào để nghe họ nói gì, đề xuất những vấn đề gì? Mặt khác, cán bộ tuyên truyền phần lớn là người Kinh, không thông thạo tiếng đồng bào DTTS nên việc truyền tải nội dung tuyên truyền chung chung, qua loa, đại khái. Vì vậy, phần lớn đồng bào DTTS sẽ không hiểu; hoặc có hiểu thì cũng không tường tận. Chính cách tuyên truyền “qua loa” ấy mà nhiều chủ trương, đường lối của Đảng chưa đến được cụ thể với dân, nhiều chính sách mới ưu tiên cho đồng bào DTTS; nhiều chủ trương mới về giao đất, giao rừng, giao khoán sản phẩm... chưa được giải thích rõ ràng, thấu đáo nên đồng bào DTTS sinh ra băn khoăn, trăn trở.

Bài 1: Những "cán bộ trên cây" và bài học "dân là gốc"
Các trường học dân tộc nội trú đều đưa cồng chiêng vào giảng dạy cho học sinh. Ảnh: qdnd.vn 

Giải thích về vấn đề này, đồng chí Tống Thới Mốc, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai cho rằng, khi đồng bào chưa có thông tin chính thống, cũng không có điều kiện bày tỏ, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, nên những trăn trở, bức xúc dần “tích tiểu thành đại”, sinh ra những phản ứng tiêu cực khó kiểm soát và dần hình thành các điểm nóng trong dư luận và cộng đồng. Thậm chí, ngay cả khi các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn tinh vi mua chuộc, lôi kéo đồng bào, thì công tác tuyên truyền, giáo dục của hệ thống chính trị cơ sở cũng không kịp thời nhận diện những âm mưu, thủ đoạn ấy. Bằng các chiêu trò bôi nhọ, kích động, các phần tử xấu hướng vào kích động mâu thuẫn giữa đồng bào DTTS với người Kinh, giữa đồng bào với chính quyền. Chúng tung “hỏa mù” rằng, Đảng giờ đã xa dân, Trung ương chỉ chăm lo đến người Kinh, mà quên đi công lao của đồng bào Tây Nguyên trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Chính điều đó, tạo ra sự lệch chuẩn nghiêm trọng nhận thức của bà con đồng bào DTTS, nhen nhóm những ngọn lửa kích động chống phá chính quyền.

Qua khảo sát, trao đổi trực tiếp với những người đứng đầu cấp xã, huyện của các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum... các ý kiến đều cho rằng, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của công tác tuyên truyền theo lối một chiều trước hết bắt đầu từ phía đội ngũ cán bộ cơ sở, nhưng phần khác lại xuất phát từ chính những yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp. Nhìn chung, công tác bồi dưỡng về kỹ năng, kiến thức tiến hành công tác giáo dục, tuyên truyền nói riêng, công tác vận động quần chúng nói chung vẫn chưa được các cấp quan tâm đúng mức; nhiều nơi còn phó thác cho cán bộ cơ sở, bỏ ngỏ trận địa tư tưởng. Bởi thế, khi tình huống xảy ra, nhiều cán bộ ở các cấp gặp không ít lúng túng trong xử lý. Việc quan tâm, theo dõi, làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết đơn thư, khiếu nại; nhất là đôn đốc chỉ đạo xử lý vấn đề bức xúc trong đồng bào dân tộc còn chậm, thiếu dứt điểm, một số vụ việc còn để tồn đọng, kiến nghị vượt cấp, việc triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở hạn chế, tình hình an ninh nông thôn nói chung và trong vùng dân tộc nói riêng còn tiềm ẩn những nhân tố phức tạp...

Bài học từ đất, rừng và văn hóa

Làm việc với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắc Lắc, chúng tôi cứ nhớ mãi câu nói của đồng chí Nguyễn Cảnh, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắc Lắc: “Người cán bộ dù ở cương vị nào cũng phải thấm nhuần bài học “lấy dân làm gốc”, xa dân là mất tất cả. Chính tác phong xa dân đã tự nó tạo khoảng cách vô hình giữa cán bộ với đồng bào DTTS. Và như thế thì cán bộ sẽ không còn là điểm tựa, chỗ dựa niềm tin của đồng bào DTTS nữa”...

Trong những năm qua, việc triển khai các chính sách về giao đất, giao rừng, khoán sản phẩm, khiến nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa đồng bào với cán bộ cơ sở, giữa người DTTS với người Kinh, giữa nhân dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã... nhưng chưa được giải quyết triệt để đã hình thành điểm nóng trong cộng đồng. Đất đai và tài nguyên rừng là những tư liệu sản xuất, nguồn sống đã gắn bó thiết yếu với đồng bào các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Thiếu đất sản xuất và nguồn sống từ rừng, sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hằng ngày của đồng bào, do vậy sẽ có tác động trực tiếp đến tình hình an ninh nông thôn vùng DTTS ở Tây Nguyên, là nhân tố gây mất đoàn kết giữa các dân tộc. Thời gian gần đây, tình trạng một số hộ dân đồng bào DTTS ở xã Nâm Nung, huyện Krông Nô (Đắc Nông) dựng lán trại đòi lại phần đất mà họ đã đóng góp vào Công ty TNHH MTV Nam Nung (Công ty Nam Nung) từ 20 năm trước khiến tình hình trở nên phức tạp. Thực chất, Công ty Nam Nung cũng có nhiều sai phạm; trong suốt thời gian dài, do sản xuất, kinh doanh thua lỗ và để xảy ra tranh chấp đất đai với hàng trăm hộ dân. Thực tế đó chứng tỏ, việc giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc về đất, rừng đối với đồng bào các DTTS có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ giảm bớt các xung đột, tránh được nguy cơ tiềm ẩn, khó lường về các cuộc gây rối, chống đối chính quyền-mà còn tạo ra cơ hội xóa đói, giảm nghèo bền vững trong đồng bào DTTS ở Tây Nguyên nói riêng và đồng bào DTTS trên phạm vi cả nước nói chung.

Trân trọng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các DTTS Tây Nguyên vẫn còn những hạn chế nhất định cả trong nhận thức và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chính những hạn chế chủ quan này của cán bộ cùng với sự tác động của cơ chế thị trường khiến diện mạo của một số buôn, làng còn rất ít bóng dáng của nhà rông, các bản sắc văn hóa độc đáo và vốn quý có nguy cơ ngày càng mai một... Tất cả những hiện tượng đó làm mất dần bản sắc văn hóa tộc người, ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng khối đoàn kết các DTTS ở Tây Nguyên. Một thực tế khác cũng cần nhận rõ, ấy là, việc quản lý, sử dụng các nhà văn hóa cộng đồng ở nhiều nơi trên địa bàn Tây Nguyên rất lãng phí. Tỉnh Đắc Nông có 133 nhà văn hóa cộng đồng tại các thôn, buôn, bon song có đến 70/133 (chiếm 52,63%) nhà văn hóa xuống cấp, hư hỏng. Tương tự, tỉnh Đắc Lắc hiện đã xây dựng mới hơn 570 nhà văn hóa cộng đồng ở 605 buôn, bon, nhưng có tới gần 60% nhà văn hóa cộng đồng ở các thôn, buôn đồng bào DTTS hoạt động trung bình hoặc yếu kém.

Lý giải nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhà văn hóa cộng đồng hoạt động kém hiệu quả như hiện nay, già làng Ama Ne, ở Buôn Mấp, thị trấn Ea Pốk (huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắc Lắc) giải bày: “Nhà văn hóa cộng đồng ở các buôn làng, được Nhà nước đầu tư xây dựng thì to, đẹp đấy, nhưng không phù hợp với phong tục tập quán của đồng bào Ê Đê nên bà con không ai đến sinh hoạt... ”.

Thực tế phần lớn các nhà văn hóa cộng đồng ở Tây Nguyên đều được đầu tư xây dựng khá rộng rãi, hoành tráng, nhưng thiếu các thiết chế, trang thiết bị... nên hoạt động kém hiệu quả, nhanh xuống cấp, hư hỏng nặng...

(còn nữa)


PHAN TIẾN DŨNG


Nhận xét