Hồng Hạc
Thực tế cho thấy, tin giả được thể hiện dưới nhiều hình thức với sự trợ giúp của công nghệ thông tin mà phổ biến nhất là sử dụng các mạng xã hội và được lan truyền trên mạng internet. Đó là thông tin sai lệch về số người có kết quả dương tính sau khi xét nghiệm ở một địa phương, đơn vị nào đó, thậm chí nêu tên, địa chỉ một cá nhân, gia đình một cách không có căn cứ; là thông tin sai lệch về chủ trương phòng chống dịch của cấp ủy, chính quyền địa phương; là thông tin thiếu căn cứ về việc phân bổ, sử dụng các loại vắc xin; là hình ảnh được quay, cắt ghép có dụng ý về những hoàn cảnh thương tâm mà ở nhiều quốc gia trong đại dịch Covid-19 này cũng đều có.
Tuy nhiên,
không chỉ như vậy, tin giả trong thời kỳ đại dịch Covid-19 còn là những thông
tin sai lệch, chụp mũ, kích động dư luận về những vấn đề chính trị - xã hội với
mục đích, động cơ xấu được che đậy dưới vỏ bọc phản biện xã hội, tự do ngôn
luận, bảo vệ nhân quyền… Dù được thể hiện dưới nhiều hình thức, phương pháp
công nghệ nhưng tựu trung, tin giả đều chứa đựng những nội dung hoặc là hoàn
toàn giả tạo hoặc là chỉ một nửa sự thật hoặc tuy là sự thật nhưng kèm theo
những chú thích, bình luận không đúng hoặc bằng sự chia sẻ (share) một cách
thiếu ý thức vì sự bình an của cộng đồng.
Thực tế cũng cho thấy, tin giả có thể là
sản phẩm của sự chủ động, cố ý của kẻ tạo tin hoặc phát tán tin với mục đích,
động cơ xấu của cá nhân. Nhưng tin giả cũng có thể là kết quả của hành vi thiếu
ý thức kiểm chứng tính xác thực, có ý đồ câu like, câu view hoặc của một thói
quen khi lên mạng xã hội… Cho dù cố ý hay vô ý, những thông tin đó đều mang lại
sự bất an cho cộng đồng ở những mức độ khác nhau vì không phải ai cũng có điều
kiện để kiểm chứng về tính xác thực của chúng. Vì thế, tin giả là một loại
virus đặc biệt nguy hại thâm nhập dần vào xã hội, tạo ra tâm trạng hoang mang,
bào mòn niềm tin, sự lạc quan của con người và từ đó, nó có thể nuôi dưỡng ý
chí phản kháng tiêu cực của cá nhân và cộng đồng. Như vậy, tin thì giả nhưng
hậu quả lại là thật.
Nhận
thức được tác hại của virus “tin giả”, chúng ta phải có hành động quyết liệt để
loại bỏ loại virus này:
Đầu tiên, Việt Nam cũng đã kịp thời tạo
ra những căn cứ pháp lý quan trọng để bảo vệ các quan hệ xã hội trước hiện
tượng tin giả. Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 2, Điều 14 quy định: quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Tại Điều 25 quy định: quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình của công
dân được thực hiện theo pháp luật.
Luật An ninh mạng (2018) và Bộ Quy tắc ứng
xử trên mạng xã hội (ban hành bởi Quyết định 874/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021 của Bộ
trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông) sẽ là một loại vắc xin đặc hiệu đối với
hành vi tạo và phát tán tin giả. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là làm sao để
các quy định của pháp luật được áp dụng thật sự nghiêm minh, hiệu quả, thấu
tình đạt lý trên cơ sở phân biệt động cơ, mục đích, bản chất của tin giả.
Mặt khác, chúng ta đang có 779 cơ quan
báo chí (142 báo, 162 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan
có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình trong đó có 2 đài quốc gia, 64
đài địa phương với 87 kênh phát thanh, 193 kênh truyền hình, 21.132 nhà báo.
Nếu các cơ quan báo chí và nhà báo của chúng ta thực hiện tốt hơn nữa vai trò
chủ động, tiên phong, kiên trì, kiên quyết trên mặt trận truyền thông, tuyên
truyền thì chắc chắn sẽ có rất ít dư địa và điều kiện cho tin giả tồn tại./.
Nhận xét
Đăng nhận xét