Bản
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng biết bao giá trị
tư tưởng và tình cảm. Những lời căn dặn của Người đối với Đảng và nhân dân ta
thể hiện trên những nội dung chính, bao gồm: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, xây dựng đất nước sau chiến tranh, đoàn
kết quốc tế... thế nhưng thời gian
qua, một kẻ đã lợi dụng, thậm chí còn cố tình xuyên tạc cả những điều thiêng liêng
mà Người đã căn dặn trong bản Di chúc rồi quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
nay đang làm trái di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không tương xứng với vai
trò của một Đảng cầm quyền
. Những luận điệu đó thực chất nhằm phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng ta, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Đọc lại
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta thấy nhận định
này hoàn toàn sai lầm, thể hiện ít nhất qua 3 vấn đề lớn sau đây:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh
đã nhiều lần nhắc đến cụm từ “chủ nghĩa xã hội”, “xã hội chủ nghĩa” hoặc các
vấn đề liên quan đến đảng cộng sản.
Trong bản Di
chúc viết năm 1965, đoạn nói về đoàn viên thanh niên, Hồ
Chí Minh viết: “Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
"hồng" vừa ‘chuyên’". Câu này cũng được Hồ Chí Minh lặp lại
ở bản Di chúc viết năm 1969.
Còn trong bản năm
1968, Người khẳng định những chiến sĩ trẻ tuổi và thanh niên xung phong “là đội
quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”. Cũng trong năm này, người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải
làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Chúng ta hiểu rằng đảng cộng sản là lực lượng
lãnh đạo cách mạng vô sản để tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nêu “Đảng ta là một đảng cầm
quyền”. Vì vậy, không có lý gì Hồ Chí Minh vẫn khẳng định vai trò cầm quyền mà
không khẳng định mục tiêu đó của Đảng.
Ngay cả trong phần mở
đầu của bản Di chúc viết năm 1965, Hồ Chí Minh đã nêu: “Tôi
để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ
Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và
đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Điều này xác lập rõ lý tưởng cách
mạng cao đẹp của Người, đó là suốt đời trung thành với lý tưởng cộng sản do
Mác, Lênin sáng lập và phát triển.
Thứ hai, Hồ Chí Minh
nhiều lần đề cập các nội dung, yêu cầu mà Đảng phải thực hiện, qua đó khẳng
định mục tiêu cao đẹp của Đảng ta là phải lãnh đạo xây dựng đất nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Các nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, Hồ Chí Minh đã có nhiều định nghĩa về chủ nghĩa xã hội bằng cách xác
định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chỉ rõ phương hướng, phương tiện để
đạt được mục tiêu đó. Trong hơn 20 định nghĩa về chủ nghĩa xã hội thống kê
được thì hơn 2/3 định nghĩa thuộc loại này. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh hỏi:
"chủ nghĩa xã hội là gì" và Người tự trả lời "là mọi người được
ăn no mặc ấm, sung sướng tự do", "là đoàn kết, vui khỏe"...
Người cũng định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó,
chẳng hạn đã nêu: "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy"…
Như vậy, Hồ Chí Minh thường đi vào nội
hàm của chủ nghĩa xã hội với những mục tiêu, phương thức, cụ thể, chứ ít khái
quát bằng các lý luận.
Mục tiêu cách mạng cũng đã được khẳng
định trong Điều lệ Đảng, được thông qua tại Đại hội III (năm 1960): “Đảng đại
biểu quyền lợi của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu quyền lợi của nhân
dân lao động và quyền lợi của dân tộc. Mục đích của Đảng là hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
ở Việt Nam”. Đây là một trong hai kỳ đại hội mà Hồ Chí Minh giữ vai trò Chủ
tịch Đảng.
Cũng trên tinh thần
đó, trong Di chúc năm 1965, Người viết: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Trong bản Di
chúc viết năm 1968, Hồ Chí Minh bổ sung nhiều nội dung quan trọng.
Người khẳng định: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Người đã nhắc đến các đối tượng: “những người đã dũng cảm hi sinh một phần
xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…),
“các liệt sĩ”, cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ)”, “những chiến sĩ
trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong”, phụ
nữ… Và đây, lời nhắn nhủ đối với người vốn bị coi là tầng lớp “dưới đáy xã
hội”, đặc biệt trong xã hội tư bản thì không bao giờ được quan tâm, chăm sóc,
nhưng Hồ Chí Minh lại dặn dò rất kỹ: “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội
cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... thì Nhà nước phải dùng vừa giáo
dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao
động lương thiện”. Điều đó khẳng định tình yêu thương con người bao la của một
người cộng sản, một người cách mạng suốt đời trung thành, tận tụy và không
ngừng phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp đó.
Ở phần tiếp theo,
Người nêu rõ ràng hơn, cụ thể hơn: “Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề
nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào
hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Điều đó hoàn
toàn trùng khớp với mong mỏi của Người như ở bản Di chúc viết
năm 1969: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế
và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Và, điều mong muốn
cuối cùng của Hồ Chí Minh là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (Di chúc năm
1965 và năm 1969). Điều đó càng khẳng định mục tiêu xây dựng đất nước theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh là từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.
Thứ ba, Hồ Chí Minh
nhắc đến yêu cầu đoàn kết của phong trào cộng sản trên thế giới.
Câu cuối cùng trong Tuyên
ngôn của đảng cộng sản ghi: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”.
Khẩu hiệu này đã được Lênin phát triển thành: “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Đây là một phương châm hành động mang tính
chiến lược của phong trào cộng sản và công nhân thế giới.
Vì vậy, không có gì
lạ khi Hồ Chí Minh không ngừng trăn trở về yêu cầu đoàn kết của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Những năm 1960, các nước xã hội chủ nghĩa đã có nhiều
vấn đề thiếu đoàn kết, thậm chí có lúc bất hòa với nhau, giữa các nước Đông Âu,
giữa Liên Xô và một số nước Đông Âu, giữa Liên Xô và Trung Quốc… Sự thiếu đoàn
kết đó không chỉ làm suy yếu bản thân từng nước mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến khối xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào cộng sản ở
chính các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước khác.
Trong bản Di
chúc viết năm 1965 và năm 1969, trước khi nói về “việc riêng”, Hồ Chí
Minh dành một đoạn nói về phong trào cộng sản thế giới, “là một
người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng
bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Tôi mong rằng Đảng
ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết
giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản, có lý có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước
anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”. Tức là trong 4 năm đó, Người vẫn
đau đáu với những vấn đề nội tại của các nước xã hội chủ nghĩa; trên thực tế,
sự mất đoàn kết không có dấu hiệu giảm đi mà ngày phức tạp.
Nếu không phải một
người trung thành với lý tưởng cộng sản thì liệu Hồ Chí Minh có nặng lòng với
các vấn đề đó và luôn giữ sự trăn trở đó cho đến cuối đời?
Phương Ngọc
Nhận xét
Đăng nhận xét