Có nên vận dụng mô hình tam quyền phân lập vào Việt Nam hiện nay?


Hiện nay, nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước trên thế giới nhưng mức độ áp dụng không hoàn toàn giống nhau. Những nước theo chế độ cộng hòa tổng thống thường áp dụng triệt để nguyên tắc phân quyền theo quan điểm của tam quyền phân lập. Trong khi đó các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị hoặc quân chủ đại nghị thường áp dụng nguyên tắc phân quyền mềm dẻo hơn. Theo đó, có sự dung hợp quyền lực giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Mô hình tam quyền phân lập là kết quả của sự phát triển triết học về nhà nước từ trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ John Locke (1632-1704) và Charles de Secondat Montesquieu (1689- 1755).
Mô hình tam quyền phân lập ra đời, ban đầu nhìn chung, với chủ trương phân quyền để chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân. Tuy nhiên, mô hình này mang tính lịch sử, xã hội và sự vận dụng còn phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử; quan hệ cũng như tương quan lực lượng giữa các giai cấp và trong từng giai cấp trong xã hội. Cho nên, chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Khi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về nguyên tắc không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Về bản chất, các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015) cũng do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền. Điều 94, Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 102, Hiến pháp 2013 quy định:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

 
Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Như vậy, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Trên thực tế, ba cơ quan này đều thực hiện quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong Nhà nước Việt Nam có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân không thể phân chia. Nhà nước Việt Nam không cần tới mô hình tam quyền phân lập bởi sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân dân được bảo đảm và thực hiện tốt.
Thứ hai, như chúng ta đều rõ, lý luận phân quyền của J. Locke và Ch.S. Montesquieu đều xuất phát từ khảo sát thực tế mô hình chính thể quân chủ lập hiến của nước Anh thế kỷ XVII - XVIII. Lý luận phân chia quyền lực của J. Locke được tiến hành trong thời kỳ cách mạng của giai cấp tư sản Anh đạt được thắng lợi, tạo ra sự thỏa hiệp giai cấp và phân quyền giai cấp. Từ đời sống chính trị nước Anh, ông quan sát đến cách thức củng cố quyền lực nhà nước của giai cấp tư sản, phòng trừ việc phục hồi của thế lực phong kiến. Ông phản đối chế độ quân chủ quyền lực vô hạn, vì cho rằng nếu nhà vua có toàn quyền thì quyền lợi của mọi người sẽ bị nhà vua xâm hại, không thể có được sự xét xử công bằng. Tuy nhiên, ông không chủ trương xóa bỏ triệt để chế độ quân chủ vì cho rằng người dân Anh không dễ gì từ bỏ chế độ cũ, chỉ trong trường hợp nghiêm trọng khi nhà vua lạm dụng quyền lực thì mới đặt vấn đề phế truất nhà vua.
Trong khi chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh đã được xác lập và chế độ dân chủ nghị viện đã bước đầu định hình thì nền chính trị nước Pháp vẫn có xu hướng phản động, cụ thể là khi Luis XIV (1638-1715) lên nắm quyền vẫn cho rằng “nhà nước chính là ta”. Để đấu tranh chống xu hướng độc đoán, chuyên chế này, Ch.S. Montesquieu quyết tâm học tập chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh, đả kích chế độ chuyên chính của Pháp, đưa ra nhiều sáng kiến cho việc cải cách chế độ chính trị của Pháp. Ông cũng phản đối chuyên chế quân chủ, cho rằng trong các nhà nước chuyên chế người ta chẳng khác gì một sinh vật phục tùng một sinh vật có ý chí khác, sinh mệnh con người ở đâu cũng giống nhau. Ông cũng không chủ trương xóa bỏ hoàn toàn chế độ quân chủ, cho rằng nguyên tắc của chính thể quân chủ là vinh dự, tự trọng mà vinh dự, tự trọng là động lực thúc đẩy các “bộ phận của cơ thể chính trị”. Có nghĩa là cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu đều nhận định chế độ quân chủ lập hiến của Anh vừa bảo đảm được chế độ quân chủ vừa hạn chế được quyền lực của vua. Do vậy đó là một thể chế chính trị lý tưởng. Lý luận phân quyền của các ông mặc dù về nội dung và hình thức có những điểm không giống nhau nhưng đều dựa trên chế độ quân chủ lập hiến của Anh và đều là biểu hiện lý luận của chính thể này. Hơn nữa, phân quyền mà cả hai ông cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp. Điều này cho thấy, tính lịch sử và điều kiện lịch sử của sự ra đời cũng như của việc vận dụng mô hình tam quyền phân lập. Ở Việt Nam hiện tại không có những điều kiện lịch sử giống như lịch sử nước Anh và Pháp thế kỷ XVII-XVIII, cũng không có nhà nước chuyên chế phong kiến cần đánh đổ. Do vậy, không nhất thiết và không cần phải vận dụng mô hình tam quyền phân lập.
Thứ ba, như trên chúng ta đã rõ, phân quyền mà cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp - phân chia quyền lực giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến quý tộc đứng đầu là vua - đang “lụi tàn”, nhưng còn rất mạnh và vẫn chiếm vị trí quan trọng trong lòng người dân ở các nước này do truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc. Để dung hòa, xoa dịu mâu thuẫn và để giải quyết tương quan lực lượng giữa hai giai cấp này tốt nhất họ đã tìm thấy mô hình nhà nước chính thể quân chủ lập hiến. Mô hình này giúp cho giai cấp tư sản lợi dụng được truyền thống của giới quý tộc phong kiến trong việc khơi gợi tự hào dòng tộc, truyền thống quốc gia. Trên cơ sở đó giúp giai cấp tư sản tập hợp được sự nhất trí của các giai tầng vì một dân tộc quốc gia thống nhất. Mặt khác, về hình thức thì giai cấp phong kiến quý tộc vẫn còn danh dự, vẫn có quyền lực mặc dầu chỉ là quyền lực hình thức. Đối với Việt Nam, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức,v.v.. mặc dù khác nhau về tính chất nghề nghiệp, công việc, đặc điểm lao động, trình độ học vấn, v.v.. nhưng nếu xét về địa vị trong nền sản xuất xã hội, xét về địa vị chính trị trong chế độ chính trị - xã hội thì các giai cấp này thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, kể cả đối với quyền lực nhà nước. Hơn nữa, trong nội bộ mỗi giai cấp này cũng có sự thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam cũng như trong nội bộ từng giai cấp này là sự thống nhất về lợi ích. Hơn nữa, lợi ích của các giai cấp này cũng thống nhất với lợi ích của Nhà nước Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tương quan giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức cũng như tương quan trong nội bộ từng giai cấp như vậy không đòi hỏi phải phân chia quyền lực nhà nước!.
Thứ tư, chúng ta đều rõ ở phương Tây, chính phủ được thành lập bởi nhóm thắng cử đa số và đủ số lượng phiếu theo luật định trong cuộc bầu cử. Nếu thắng cử với đa số phiếu nhưng vẫn chưa đủ thắng áp đảo theo luật định thì nhóm thắng cử phải liên minh với các nhóm chính trị khác để có đủ số phiếu theo luật định thành lập chính phủ. Trong khi đó, có thể nhóm chính trị khác lại thắng cử ở hạ viện hoặc thượng viện. Nói khác đi, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có thể thuộc về các nhóm chính trị khác nhau hoặc liên minh của các nhóm chính trị khác nhau của các giai cấp. Các nhóm chính trị này chỉ đại diện cho ý chí của các nhà tài trợ thuộc các tập đoàn tài phiệt kinh tế, các ngân hàng lớn, các công ty luật,v.v.. mà thôi. Trong giai cấp thống trị có nhiều nhóm chính trị khác nhau (chẳng hạn ở Mỹ có tới 112 đảng, phái, nhóm chính trị), nhưng nhóm thắng cử trong bầu cử chỉ đại diện cho ý chí của những nhà tài trợ. Do vậy, nếu không kiểm soát quyền lực bằng cách phân chia (dù chỉ là hình thức) thì nguy cơ lạm quyền, độc quyền, chuyên quyền bởi các nhóm chính trị này là không tránh khỏi. Nghĩa là từ tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước giữa các giai cấp trong xã hội của J. Locke và Ch.S. Montesquieu thì ở phương Tây hiện đại, người ta đã vận dụng tư tưởng này vào phân chia quyền lực nhà nước giữa các nhóm chính trị trong nội bộ các giai cấp. Nghĩa là sự tương quan lực lượng giữa các giai cấp cũng như sự tương quan lực lượng trong nội bộ từng giai cấp mất cân bằng và cần đến mô hình tam quyền phân lập để cân bằng quyền lực.
Ở Việt Nam, như trên chúng ta đã khẳng định, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức,v.v.. thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, kể cả đối với quyền và nghĩa vụ trong thực hiện quyền lực nhà nước. Các giai cấp này chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, không cần phải nói tới việc phân chia quyền lực giữa các giai cấp này cũng như trong nội bộ từng giai cấp này. Từ đây cho thấy, những người hô hào phải vận dụng mô hình tam quyền phân lập vào nhà nước Việt Nam là những người ủng hộ đa đảng, đa nguyên chính trị. Mà điều này là không phù hợp thực tế Việt Nam cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn.
Thứ năm, tinh thần tam quyền phân lập của J. Locke và Ch.S. Montesquie rất phù hợp trong điều kiện chống chế độ quân chủ phong kiến thế kỷ XVII-XVIII ở châu Âu nhưng vận dụng vào điều kiện hiện nay cần cân nhắc rất kỹ lưỡng. Chưa kể, một số tư tưởng của họ còn hạn chế. Chẳng hạn, J. Locke chưa phân định rõ ràng giới hạn quyền năng của các cơ quan nhà nước, quyền đối ngoại mà ông nói đến thực chất chỉ là một loại quyền hành pháp. Do đó, ba quyền mà ông đề cập trên thực tế chỉ là hai quyền lập pháp và hành pháp. J. Locke chỉ nói về phân quyền nhưng chưa luận giải được nếu trong quá trình thực hiện quyền lực phát sinh mâu thuẫn hoặc xung đột thì phải giải quyết thế nào. Mặc dầu, Ch. S. Montesquieu có đề cập quan hệ chế ước và cân bằng giữa ba quyền. Tuy nhiên, cũng chính Ch.S. Montesquieu đã máy móc khẳng định rằng khí hậu ảnh hưởng đến luật pháp. Ông viết: “Ở các vùng khí hậu khác nhau, tính cách, tinh thần, tình cảm và dục vọng của con người cũng rất khác nhau. Nếu như thế thì luật pháp cũng phải tương ứng với sự khác nhau ấy”(1). Ông cũng có hạn chế, thiên vị tầng lớp quý tộc khi cho rằng cần ưu tiên cho những người có nguồn gốc từ quý tộc trong cơ chế bầu cử. Do vậy, không nên tiếp thu và vận dụng mọi tinh thần, tư tưởng của J. Locke và Ch.S. Montesquieu bất chấp sự khác biệt và hạn chế của họ. Có thể chúng ta tiếp thu những luận điểm riêng biệt tiến bộ, phù hợp phong tục, tập quán, văn hóa Việt Nam chứ không thể vận dụng một cách máy móc được. Bởi lẽ, như đã nói ở trên điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như phong tục, tập quán, văn hóa của chúng ta khác với các nước khác. Hơn nữa, tương quan giữa các giai cấp, cũng như tương quan trong mỗi giai cấp ở nước ta cũng khác.
(1) Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb Chính trị - Hành chính, H, 2013, (tái bản lần thứ hai) tr.139.

PGS.TS. Trần Văn Phòng

Nhận xét