SÁU NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG


 B.T
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là sản phẩm trí tuệ của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân ta; được chuẩn bị rất công phu, nghiêm túc ngay từ giữa nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI đặc biệt quan tâm và chỉ đạo sát sao; được sự tham gia, góp ý của nhiều cấp, nhiều ngành với cách làm bải abnr, khoa học, dân chủ.
Nội dung Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận - thực tiễn 30 năm đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có sự kế thừa, bổ sung, phát triển nội dung Văn kiện Đại hội XI, văn kiện của các Hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ và đường lối, quan điểm của Đảng đã được trình bày trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện, tài liệu của Đảng trong các nhiệm kỳ trước đó. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định, hoàn thiện quan điểm đường lối đổi mới của Đảng ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu những kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện nước ta. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có nhiều điểm mới, thể hiện trình độ phát triển tư duy lý luận của Đảng ta trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Điểm nổi bật trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là thể hiện rõ quan điểm xuyên suốt, những vấn đề cơ bản, căn cốt nhất của cách mạng Việt Nam, những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng, đồng thời đặt ra những nhiệm vụ cụ thể, những vấn đề mới, cấp bách nảy sinh từ thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Nghị quyết của Đại hội XII trên các lĩnh vực, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây :
“Một là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.”[1]
Xây dựng, chỉnh đốn làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là khâu then chốt quyết định nâng cao tính khoa học, năng lực, hiệu quả lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; giữ vững, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Trên thực tế nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng đã không được quán triệt, thực hiện có chất lượng, hiệu quả bởi tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí và sự suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hiện nay, “tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ.”[2]
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, phải tiếp tục “đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”[3], cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối và hiệu lực lãnh đạo của Đảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí  tuệ, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân với Đảng. Đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng là vấn đề có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện, trước hết là bản lĩnh chính trị, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, với Tổ quốc với nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, có phẩm chất năng lực toàn diện đáo ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đổi mới quan điểm, phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ, bảo đảm công khai, minh bạch, trung thực, khách quan, toàn diện, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ và uy tín trong cơ quan, đơn vị làm thước đo chủ yếu; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.
“Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.”[4]
Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao, đó là mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị nước ta mà Đảng đã xác định.
Nhiều năm qua, vấn đề cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính luôn được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và được triển khai ngày càng mạnh mẽ trong bộ máy Nhà nước. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII của Đảng nêu rõ, một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội XII là: “Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”. Điều đó cho thấy, Đảng đã thấy rõ nguy cơ tụt hậu bởi nền hành chính trì trệ, cùng với đó là nạn tham nhũng, tệ lãng phí, quan liêu chưa được đẩy lùi một cách hiệu quả. Thực tiễn mấy chục năm qua cho thấy, sau mỗi kỳ Đại hội, chất lượng cải cách hành chính, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu đã có bước phát triển mới về chất, nền hành chính ngày càng chuyển mạnh mẽ hơn sang nền hành chính phục vụ, lấy tiêu chí hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo cho hiệu quả công việc. Bởi vậy, nhân dân đang rất hy vọng vào sự chuyển biến mạnh mẽ hơn của nền hành chính nước nhà trong thời gian tới theo hướng tiệm cận với những nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả nhất trên thế giới, chứ không chỉ dừng lại ở cấp độ khu vực. Cách đây 70 năm, khi nước nhà còn chìm trong khói lửa chiến tranh, kinh tế-xã hội đều lạc hậu, ở trình độ rất thấp, nhưng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm được và áp dụng những thành tựu tiến bộ nhất trên thế giới lúc bấy giờ để tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử toàn dân, phổ thông, bỏ phiếu kín để lập nên nhà nước theo thể chế Dân chủ cộng hòa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, mà rất hiếm các nước trên thế giới thực hiện được lúc bấy giờ. Trong điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều như hiện nay, rõ ràng, hy vọng của người dân về một nền hành chính theo hướng tiệm cận với những nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả nhất trên thế giới hoàn toàn có thể thực hiện được và trở thành hiện thực, nếu chúng ta dốc sức, đồng lòng, quyết tâm cao cùng thực hiện…
“Ba là, tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới cán bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.”[5]
Đại hội XI xác định: “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế…”[6] là nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2011-2015. Mặc dù “Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được kết quả bước đầu”[7], song kết quả thực hiện nhiệm vụ này cho thấy “Việc xây dựng và thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế”[8]. Vì vậy, Đại hội XII chủ trương: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược… cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng…”[9] là nhiệm vụ trọng điểm đến năm 2020. Chủ trương này không những khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cơ cấu kinh tế đối với tăng trưởng kinh tế mà còn phản ánh sự phát triển nhận thức cũng như lý luận của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế trong điều kiện hiện nay.
Cùng với đó, Đại hội XII khẳng định tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả đề tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, các lĩnh vực. Cụ thể là cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa hiện đại hóa; đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ; phát triển mạnh mẽ các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo; phát triển các vùng và khu kinh tế, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng; đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp.
“Bốn là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thơ cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.”[10]
Vấn đề: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước” được Đảng ta xác định là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII. Đây là nhiệm vụ không mới, nhưng được Đảng ta nhấn mạnh trong Đại hội XII. Trong tình hình mới, vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, đặc biệt là chủ quyền biển, đảo nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức mới trước sự tác động của nhiều yếu tố, nhất là những diễn biến phức tạp ở Biển Đông. Trong điều kiện đó, xác định bảo vệ độc lập, chủ quyền, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển là một nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII, là phù hợp, thể hiện rõ tính chính trị thực tiễn của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong bối cảnh mới hiện nay, yêu cầu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định càng đặt ra một cách cấp thiết. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại của Việt Nam với các nước, với các tổ chức, thiết chế kinh tế, thương mại thế giới, khu vực mà nước ta tham gia sẽ không hiệu quả, thậm chí mất tác dụng, nếu không duy trì tốt, không giữ được môi trường hòa bình, ổn định. Đó là việc giữ vững đường lối phát triển, bảo đảm sự thống nhất, nhất quán của các chủ trương, chính sách; không có xáo trộn, biến động về chính trị, đặc biệt là trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường chính trị.
“Năm là, thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.”[11]
Để phấn đấu đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là khả năng phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Với quan điểm khách quan, toàn diện, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ, thời gian tới tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Thế giới ngày nay đang thay đổi nhanh chóng, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của đất nước ta đan xen phức tạp. Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sự phát triển của thế giới đang đứng trước một bước ngoặt mới; xung đột tôn giáo, sắc tộc có xu hướng phức tạp... Trong bối cảnh đó, để nâng cao sức mạnh nội lực, đưa đất nước tiếp tục vượt qua khó khăn, phát triển bền vững, vấn đề thu hút và phát huy sức dân càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Theo đó, để phát huy sức sáng tạo của nhân dân, trước hết, chúng ta cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các tổ chức, các lực lượng trong xã hội về vai trò của nhân dân và việc động viên, phát huy vai trò của nhân dân trong điều kiện mới. Chú trọng xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Thường xuyên củng cố, giữ vững và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo dựng sự đồng thuận cao trong xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để phát huy cao nhất vai trò làm chủ của nhân dân; tăng cường các hoạt động giám sát của nhân dân đối với hệ thống chính trị và đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm chăm lo, đầu tư phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng chăm lo đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và khu vực biên giới, hải đảo. Tăng cường bảo đảm tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; đấu tranh có hiệu quả nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực, xử lý dứt điểm những vấn đề “nóng” trong xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn sức mạnh to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội hàm của phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời khắc phục những hạn chế trong phát huy nguồn lực, tiềm năng của nhân dân. Cần phát huy sức mạnh các nguồn lực: vật chất, tinh thần; bên trong, bên ngoài; nguồn lực con người và các nguồn lực khác (được tạo ra trong quá trình đổi mới đất nước). Tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để mọi người dân phát huy tốt nhất quyền làm chủ đối với tương lai và vận mệnh của dân tộc, đồng thời giúp mọi người dân được cống hiến sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có điều kiện làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội; khuyến khích và trọng dụng những sáng kiến, phát minh của nhân dân.
“Sáu là, phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.”[12]
Đảng ta luôn khẳng định, nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, phát huy nhân tố con người được Đảng ta xác định là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII. Có thể khẳng định rằng, việc xác định yêu cầu bồi dưỡng nguồn lực con người như một nội dung cấu thành quan trọng trong vấn đề phát triển con người là rất đúng đắn và khoa học.
Để con người phát triển không chỉ là chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn cho nhân dân với tư cách mục tiêu của sự phát triển xã hội, mà còn là bồi dưỡng toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách cho con người nhằm tạo tiền đề cho việc phát huy nguồn lực này với tư cách động lực quan trọng và căn bản nhất của sự phát triển bền vững.
Chất lượng của nguồn nhân lực phải được đánh giá một cách toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất... của con người. Nhận thức rõ điều đó, tiếp tục quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; đó vừa phản ánh sự kế thừa cốt cách con người Việt Nam truyền thống, bước đầu bổ sung, định hình cốt cách con người Việt Nam của sự nghiệp đổi mới, vừa là mục tiêu vươn tới nhằm không ngừng hoàn thiện, khẳng định sự phát triển bền vững của nguồn lực con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII là một thể thống nhất, không tách rời thể hiện tính toàn diện, khách quan, khoa học trong đánh giá thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện tại và con đường phát triển trong tương lai. Đồng bộ thực hiện thắng lợi sáu nhiệm vụ trọng tâm chính là “Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập”, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Đại hội lần thứ XII của Đảng là Đại hội đoàn kết - dân chủ - kỷ cương - đổi mới, khẳng định quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những người tiền phong, gương mẫu trong việc học tập và hiện thực hóa Nghị quyết vào hoạt động công tác, điều đó một mặt góp phần thực hiện Nghị quyết, mặt khác trở thành những tấm gương tiêu biểu trong việc tuyên truyền sâu rộng tới toàn thể nhân dân cùng phát huy tinh thần, ý thức trách nhiệm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng.





[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 51.
[2] Sđd, tr. 190.
[3] Sđd, tr. 198
[4] Sđd, tr. 52
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 52
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 188
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 231
[8] Sđd, tr. 85
[9] Sđd, tr. 218
[10] Sđd, tr. 52
[11] Sđd, tr. 53
[12] Sđd, tr. 53

Nhận xét