Tham nhũng đang là một vấn nạn chung của toàn cầu, không
riêng một quốc gia nào. Để phòng, chống tệ nạn này, Đảng, Nhà nước ta có
quyết tâm chính trị rất cao, triển khai quyết liệt, đảm bảo cho Luật
Phòng, chống tham nhũng (năm 2005) đi vào đời sống xã hội, góp phần cảnh
tỉnh, răn đe, loại dần tệ nạn này. Song trớ trêu thay, các thế lực thù
địch và phần tử cơ hội không thấy rõ điều đó, mà còn lợi dụng vấn đề này
để chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước của nhân dân ta.
Những người thường xuyên tiếp xúc in-tơ-nét hẳn không xa lạ với những
thông tin, bài viết có nội dung đề cập đến hiện tượng tham nhũng ở Việt
Nam được đăng tải trên các blog, facebook, wesite,… của một số hội, nhóm
“xã hội dân sự” và các cá nhân tự xưng là những nhà hoạt động “dân chủ,
nhân quyền”, “vì dân”, “vì nước”, v.v. Nhìn vào những thông tin, bài
viết của các hội, nhóm, cá nhân trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy
nó thường mang nặng sự suy diễn chủ quan, tô vẽ, thổi phồng, thậm chí
xuyên tạc trắng trợn tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam. Để lôi kéo người dân “tin tưởng” vào các luận điệu
xuyên tạc, các hội, nhóm, nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền” thường lợi
dụng những vụ án tham nhũng liên quan đến cán bộ, đảng viên đã xảy ra
hoặc những sự việc tiêu cực trong xã hội để suy diễn, quy kết “do tham
nhũng” và thổi phồng cho đó là tình trạng “phổ biến”, “bản chất” của chế
độ xã hội chủ nghĩa, một “căn bệnh” do cơ chế độc đảng lãnh đạo, do
“năng lực quản lý yếu kém” của Nhà nước, v.v. Chúng suy diễn rằng, có sự
“bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can
thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí” của lãnh đạo, chính
quyền các cấp nên nó mới lộng hành như vậy. Nguy hiểm hơn, để truyền tải
rộng rãi các thông tin xuyên tạc tới người dân, chúng còn lập riêng một
số website, blog để đăng tải bài viết, hình ảnh xuyên tạc, vu khống,
bôi nhọ về đời tư, sự minh bạch của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
ta.
Mục đích trên của chúng nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực trạng
xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ
thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân dân
vào Đảng và chế độ, tạo “hoài nghi” về quyết tâm chống tham nhũng của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong
Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận
trong xã hội. Đi đôi với luận điệu xuyên tạc trên của các nhà hoạt động
“dân chủ, nhân quyền” là những lời hô hào, xúi giục nhân dân “đoàn
kết”, “đứng lên đấu tranh đòi tự do, dân chủ”; kêu gọi Đảng Cộng sản
Việt Nam phải thay đổi: “Cương lĩnh”, “thể chế chính trị”, “mô hình lãnh
đạo”, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, v.v.
Cùng với các hội, nhóm “xã hội dân sự”, nhà hoạt động “dân chủ, nhân
quyền”, còn phải kể đến một số tổ chức mang danh quốc tế. Họ luôn tự cho
mình cái quyền đi “phán xét” tình hình tham nhũng ở các quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam và thường kỳ đưa ra cái gọi là “Báo cáo
tham nhũng toàn cầu”. Đáng chú ý, khi đề cập đến thực trạng tham nhũng ở
Việt Nam, các bản “báo cáo” này thường dựa trên những quan điểm chủ
quan, thiếu cơ sở, mang tính phiến diện, phản ánh sai lệch tình hình;
đưa ra những đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện “quyền tự do” cho người dân
để “nâng cao hiệu quả” chống tham nhũng và kêu gọi “cho phép các tổ
chức xã hội dân sự” tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng, v.v.
Như vậy đã rõ, các tổ chức hội, nhóm, cá nhân trên đang cố tình muốn sử
dụng vấn đề tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam làm
“công cụ”, “ngọn cờ tiên phong” để thực hiện ý đồ xấu, chống phá Việt
Nam. Thực chất, đó chỉ là những tổ chức, cá nhân có quan điểm, tư tưởng
phiến diện, lệch lạc được các thế lực thù địch, phản động “hậu thuẫn”,
cổ vũ, đội lốt “trách nhiệm” với “vận mệnh” của dân tộc, của đất nước để
chống lại công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Đây rõ
ràng là chiêu trò, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm gây “nhiễu loạn”
chính trị - xã hội, nhằm xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Như chúng ta biết, tham nhũng là một hiện tượng xã hội, gắn liền với sự
ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia,
không phân biệt chế độ chính trị, kể cả ở nước nghèo và nước giàu, quốc
gia phát triển, đang phát triển hoặc kém phát triển; không phân biệt do
một đảng hay do đa đảng lãnh đạo.
Ở Việt Nam, ngay từ khi xây dựng chính quyền cách mạng (năm 1945), Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chính phủ đã nhận diện, thẳng thắn chỉ ra các hiện
tượng tham ô tài sản, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, v.v.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”1.
Người cho đó là: “Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang
súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”2.
Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với bộ máy và công chức, viên chức nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản
nhất của sự phát triển. Người luôn nghiêm khắc nhắc nhở mọi tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”3; “…
một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng
có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà
có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ,
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”4. Quán triệt tinh thần
đó, trong văn kiện của Đảng tại các kỳ đại hội đều cảnh báo về tệ nạn
này, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng nêu: “Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội
là một trong bốn nguy cơ trước mắt của đất nước”. Hội nghị Trung ương 5
(khóa XI) của Đảng đánh giá: “Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng,
với những biểu hiện tinh vi, phức tạp xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều
cấp, nhiều ngành,… gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối
với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,…”. Nhiều văn bản,
như: Chỉ thị 64-CT/TW của Ban Bí thư (khóa VI), Chỉ thị 15-CT/TW của Bộ
Chính trị (khóa VII) “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng”; Nghị
quyết Trung ương 3 (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Chỉ thị 50-CT/TW của Bộ
Chính trị (khóa XI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”,… đã đi vào cuộc sống, trở
thành phương thuốc hữu hiệu ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng. Khi Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội (khóa XII) đã ra Nghị quyết 1039/2006/NQ-UBTVQH11, ngày 28-8-2006,
về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Nghị quyết
294A/2007/NQ-UBTVQH12, ngày 27-9-2007, về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương về phòng, chống tham nhũng. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
13/2007/QĐ-TTg, ngày 24-01-2007, về việc thành lập, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, tổ chức và quy chế hoạt động của Văn phòng Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan bảo vệ pháp luật,
như: Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,…
đã thành lập những đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng.
Cùng với các chủ trương, văn bản pháp luật phòng, chống tham nhũng,
Đảng, Nhà nước ta đã có những hành động cụ thể nhằm vạch mặt, kiên quyết
xử lý những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất và có hành vi tham
nhũng. Theo thống kê của Thanh tra Chính phủ, năm 2015, ngành Thanh tra
đã phát hiện 100 vụ, 172 đối tượng có hành vi tham nhũng và liên quan
đến tham nhũng với số tiền 40,7 tỷ đồng. Cơ quan điều tra các cấp đã thụ
lý điều tra 351 vụ án, 813 bị can phạm tội về tham nhũng, khởi tố mới
178 vụ, 317 bị can; thu hồi, nộp ngân sách nhà nước trên 103 tỷ đồng và
2.887 m2 đất. Viện kiểm sát các cấp thụ lý giải quyết 323 vụ/806 bị can
về các tội danh tham nhũng, truy tố 310 vụ/697 bị can; tòa án nhân dân
các cấp đã xét xử sơ thẩm 260 vụ, 577 bị cáo về tội danh này. Riêng quý
II năm 2016, có 04 trường hợp người đứng đầu bị kết luận là thiếu trách
nhiệm để xảy ra tham nhũng, đã xử lý kỷ luật 02 người, xử lý hình sự 02
người; phát hiện 07 vụ, 08 đối tượng có hành vi tham nhũng và liên quan
đến tham nhũng. Cơ quan cảnh sát điều tra đã thụ lý điều tra 148 vụ, 354
đối tượng tham nhũng và liên quan đến tham nhũng, v.v.
Thời gian qua, những người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam
tiếp tục khẳng định và quyết tâm đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng. Gần đây, tại phiên họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kết
luận: “Cần tập trung chỉ đạo xử lý một số vụ án tham nhũng kinh tế đặc
biệt nghiêm trọng, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; tài liệu, chứng cứ
chắc đến đâu xử lý đến đó, sau đó điều tra xử lý tiếp nhằm tạo sự lan
tỏa và chuyển biến tích cực trong phát hiện, xử lý tham nhũng”. Trong
báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc trình bày tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV nêu rõ: “kỷ luật,
kỷ cương trong bộ máy hành chính và trong xã hội chưa nghiêm; năng lực,
phẩm chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu
cầu. Tình trạng tham nhũng còn nghiêm trọng, xảy ra nhiều vụ tham nhũng
lớn trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đất
đai,...”. Tiếp xúc với cử tri thành phố Hải Phòng, ngày 03-8-2016, Thủ
tướng đã cảm ơn các ý kiến tâm huyết, thẳng thắn của cử tri về các vấn
đề còn khó khăn, tồn tại của đất nước và khẳng định quyết tâm phòng,
chống tham nhũng của Chính phủ; đồng thời nhấn mạnh “không có vùng cấm
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng”.
Như vậy, Đảng, Nhà nước ta không phủ nhận tham nhũng đã và đang tồn tại
ở Việt Nam; là vấn đề nhức nhối, gây ra những hậu quả hết sức nghiêm
trọng đối với xã hội, trực tiếp phá hoại công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Đặc biệt, “tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm,
tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống,… chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi”5 đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân, làm sai lệch các
chủ trương, chính sách của Đảng, dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện chiến
lược “Diễn biến hòa bình”, làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước. Để ngăn chặn tệ nạn này, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn
thể hiện rõ quan điểm và quyết tâm không bao che, dung túng, tiếp tay
cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống
tham nhũng, lãng phí; kiên quyết đấu tranh loại trừ những cán bộ, đảng
viên thoái hóa biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, tham
nhũng và loại trừ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội, không để tham
nhũng cản trở công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Thực tế
trên là bằng chứng xác thực nhất bác bỏ những luận điệu tuyên truyền
phiến diện, chủ quan, lệch lạc, thù địch đang cố tình lợi dụng vấn đề
tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam để thực hiện
mục đích, ý đồ xấu.
_____
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 7, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 357.
2 - Sđd, Tập 7, tr. 357.
3 - Sđd, Tập 15, tr. 547.
4 - Sđd, Tập 5, tr. 301.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb, CTQG, H. 2011, tr. 18
Nhận xét
Đăng nhận xét