Xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc


Lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch (Quảng Bình) giúp nhân dân gặt lúa bị rạp, đổ do mưa lũ. (Ảnh minh họa: Báo Quảng Bình)
“THẾ TRẬN LÒNG DÂN" LÀ MỘT TRONG NHỮNG MẠCH NGUỒN SỨC MẠNH NỘI SINH CỦA QUỐC GIA - DÂN TỘC
Yếu tố “lòng dân” và “thế trận lòng dân” là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau; trong đó, “lòng dân” bao giờ cũng tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”. “Thế trận lòng dân” được xây dựng vững chắc sẽ có tác động tích cực, làm cho yếu tố “lòng dân” phát triển hài hòa, lành mạnh và hướng tới thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Song, trên thực tế, yếu tố “lòng dân” không tự nhiên trở thành “thế trận lòng dân” và “thế trận lòng dân” có thể vững ở thời điểm này, giai đoạn này nhưng cũng có thể không vững ở thời điểm khác, giai đoạn khác và không phải cứ xây dựng vững mạnh rồi là xong, mà phải thường xuyên được củng cố trong hoạt động thực tiễn thông qua đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đồng thời, thế trận này phải được đặt vào trạng thái được triển khai thống nhất trong các tầng lớp dân cư, trong mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội. Ngoài ra, môi trường chính trị - xã hội cũng là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự hình thành và phát triển của “thế trận lòng dân”.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước, không khó để nhận thấy việc “quy tụ lòng người” là bài học kinh nghiệm quý báu đóng vai trò quyết định đến thắng lợi trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.
“Thế trận lòng dân” là loại hình thế trận đặc biệt, là một trong những mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia - dân tộc và được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là nền tảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia, dân tộc, là thành lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là cội nguồn sức mạnh sâu xa xuất phát từ bản sắc văn hóa Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc luôn là chất kết dính muôn người và trở thành nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Đây chính là cơ sở, nền tảng và cội nguồn sâu xa để dân tộc ta huy động sức mạnh tiềm tàng, giành độc lập tự chủ sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Dưới thời nhà Trần, tư tưởng “chúng chí thành thành” và chủ trương “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” là nhân tố quyết định trong 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, là nét nổi bật về nghệ thuật đánh giặc giữ nước mang đậm tính minh triết của dân tộc ta.
Trái lại, dưới thời nhà Hồ, lòng dân ly tán, trước họa xâm lăng mà trăm vạn người trăm vạn lòng thì dù có quân đông tướng giỏi, thành cao hào sâu, nhưng Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng vẫn phải thốt lên “thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Và đúng là “dân không theo” nên công cuộc giữ nước của nhà Hồ khi đó thất bại.
Bằng mưu lược và trí tuệ của mình, Nguyễn Trãi đã khái quát cô đọng về sức mạnh của nhân dân, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “lật thuyền mới biết sức dân như nước”, có dân là có tất cả, không được lòng dân là mất tất cả, để rút ra vấn đề căn cốt nhất, đó là “việc nhân nghĩa cốt để yên dân”. Nhờ đó, khởi nghĩa Lam Sơn đã nhanh chóng phát triển thành biển lửa kháng chiến của cả dân tộc và giành thắng lợi.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm gốc”, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người khẳng định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”(1). Nhân hòa ở đây thực chất là tinh thần hòa hợp, đồng lòng của toàn dân, biểu hiện tập trung ở lòng yêu nước, sự đoàn kết toàn dân “muôn người như một”, được ví như “bức thành đồng” vững chắc, vô địch mà không có đội quân xâm lăng nào có thể công phá được. Đó cũng chính là sức mạnh của cả nước đồng lòng, toàn dân một ý chí, quyết tâm đánh giặc giữ nước. Không chỉ vậy, Đảng ta còn chú trọng giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, sáng tạo nhiều hình thức tổ chức, tập hợp, thu hút đông đảo quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, làm cho sự đoàn kết, đồng lòng ấy không ngừng được tăng cường vững chắc, được bổ sung những yếu tố mới, độc đáo, hiệu quả, góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến Đại hội lần thứ X, Đảng lần đầu tiên sử dụng cụm từ “thế trận lòng dân” và xác định: Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Bổ sung và phát triển quan điểm này, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”(2). Để củng cố và tăng cường hơn nữa “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, Đại hội XII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(3) trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”; đã ban hành nhiều chính sách sát thực tiễn, hợp lòng dân, đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước. Đồng thời, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh và bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động, miễn giảm thuế nông nghiệp nhằm “an dân”, “dưỡng dân”. Nhờ đó, diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân “thay da đổi thịt”, mọi người dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như ước nguyện của Bác Hồ.
Cùng với đó, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, đồng bộ hệ thống pháp luật, Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; thực thi quyền con người, quyền công dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cải cách hành chính… được tăng cường và có bước chuyển biến tích cực. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thường xuyên được chú trọng, góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân; trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài cũng cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ quan, việc xây dựng “thế trận lòng dân” còn có mặt hạn chế. Lợi dụng những yếu kém trong quản lý, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá, làm xuất hiện những sai lệch về chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, trái với truyền thống của dân tộc và giá trị con người Việt Nam, ảnh hưởng đến sự đồng thuận, gắn kết trong xã hội, làm cho một bộ phận nhân dân thiếu niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân”. Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy, xây dựng “thế trận lòng dân” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách cần phải tăng cường đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG "THẾ TRẬN LÒNG DÂN" VỮNG MẠNH
Trong tình hình hiện nay, để xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần phải thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp sau:
Một là, thường xuyên quan tâm, chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng hệ thống các chính sách cụ thể, để nhân dân được ấm no, yên tâm và tin tưởng vào con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương cần tham gia, phối hợp chặt chẽ để tập trung phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống để nhân dân ổn định cuộc sống, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn. Quá trình thực hiện, cần có các cơ chế, chính sách phù hợp, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn bằng những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cụ thể, với khai thác tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương và nhân dân tiếp cận nguồn vốn và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; chăm lo sức khỏe cho nhân dân; chú trọng giải quyết các vấn đề bất bình đẳng về lợi ích, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền; thường xuyên quan tâm giải quyết tốt những bức xúc, những vấn đề nổi cộm trong đời sống của nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phù hợp để nhân dân được tham gia bàn bạc, giám sát, phản biện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo sự đồng thuận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có cả những thuận lợi và khó khăn, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, càng phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền để nhân dân thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong củng cố “thế trận lòng dân” nói riêng. Phải làm cho “ý Đảng, lòng dân” về “thế trận lòng dân” thấm sâu vào mỗi người dân, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xây dựng “thế trận lòng dân” thời kỳ mới.
Cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp cần thường xuyên nắm chắc tình hình, đặc điểm dân cư và yêu cầu xây dựng “thế trận lòng dân” trên từng địa bàn để có biện pháp tiến hành phù hợp, hiệu quả. Quá trình thực hiện, cần chú trọng đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị của đất nước; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện thông tin, truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Đồng thời, cần đẩy mạnh phong trào thi đua nhằm tạo ra các điển hình tiên tiến về xây dựng “thế trận lòng dân”; từ đó, tổ chức học tập, rút kinh nghiệm và nhân rộng trên phạm vi cả nước.
Ba là, chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho dân, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố niềm tin trong nhân dân. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, gắn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; làm cho từng tổ chức đảng và đảng viên thực sự trong sạch, vững mạnh, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo xây dựng “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Cùng với mở rộng dân chủ, cần tập trung xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; đồng thời, coi trọng nâng cao chất lượng công tác giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, đảm bảo mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, luôn đi đầu, đi trước, làm trước, làm có hiệu quả để nhân dân tin theo trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” từ cơ sở. Chú trọng việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng và nhân dân trong tổ chức triển khai, thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tạo sự tin tưởng, đồng thuận và ủng hộ của nhân dân đối với chủ trương, quyết sách của Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các cấp.
Bốn là, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết thực xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham ô, tham nhũng theo hướng tích cực phòng ngừa là chủ yếu, kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như các biểu hiện dung túng, bao che hoặc ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí dưới mọi hình thức. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với tự tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên; với coi trọng công tác quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên theo đúng quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình thực chất kết hợp với mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, công khai minh bạch mọi vấn đề đối với từng cá nhân, tổ chức, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, ngân hàng, tài chính, xây dựng cơ bản, mua sắm công,… đảm bảo đủ sức phòng ngừa, răn đe, trừng trị để các đối tượng không thể và không dám tham nhũng.
Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong quá trình thực hiện, cần kiên quyết xử lý, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng; đồng thời, có chính sách khuyến khích, bảo vệ các tổ chức, cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, lãng phí. Chủ động và tích cực đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ lợi dụng vấn nạn tham nhũng để kích động, xúi giục, chia rẽ đoàn kết nội bộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, tăng cường hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống và làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương, là giải pháp góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh. Theo đó, cần chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng về “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; đồng thời, luôn kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động và đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”. Gắn nhiệm vụ này với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo điều kiện để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Thiếu tướng, PGS. TS. Nguyễn Văn Thế
Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
_____________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.5, tr.594.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.224-235.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.149.

Nhận xét