Bàn thêm về luận điểm: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”




                                                                                                                        HT
Trong tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen - Lời nói đầu” của C.Mác viết vào đầu năm 1844, nhằm luận chiến với Hêghen, phê phán triết học pháp quyền Hêghen, chủ đích của Mác không phải là bàn đến vấn đề tôn giáo, mà việc phê phán tôn giáo chỉ là tiền đề cho mọi sự phê phán khác: “Đối với nước Đức thì việc phê phán tôn giáo, về thực chất, đã kết thúc và việc phê phán tôn giáo là tiền đề của mọi sự phê phán khác [1].
Từ những luận chứng về tôn giáo, bản chất của nó trên trên nhiều khía cạnh khác nhau theo quan điểm duy vật, C.Mác đã rút ra kết luận xác đáng về bản chất của tôn giáo rằng: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân [2]. Luận điểm trên của C.Mác đã chỉ rõ: tôn giáo là sản phẩm của sự bất lực của con người trước những tác động của tự nhiên và xã hội, là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, bởi vì trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị bóc lột luôn luôn sử dụng tôn giáo như là một công cụ áp bức tinh thần đối với quần chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột và vai trò thuốc phiện của tôn giáo chỉ biểu hiện khi tôn giáo bị các thế lực chính trị phản động lợi dụng, nhằm mục đích, làm thui chột ý chí cải tạo hiện thực, đấu tranh vì sự tiến bộ của xã hội, theo đó nhu cầu cần đến “thuốc phiện” của quần chúng nhân dân bị bóc lột được coi như là một liều thuốc an thần, thứ “dược liệu” đặc biệt để xoa dịu nỗi lo lắng, nỗi đau “xã hội” đang đè nặng đời sống tinh thần của họ, mà hoàn cảnh lịch sử ra đời của luận điểm ấy vào giữa kỷ XIX thuốc phiện bán tràn lan ngoài thị trường thuộc loại thuốc giảm đau chứ không phải thứ ma tuý độc hại như ngày nay. C.Mác nhìn nhận một cách khách quan vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, hiểu rất rõ tính hai mặt của hiện tượng tôn giáo: Mặt thứ nhất, vai trò của tôn giáo trong việc hợp thức hoá trật tự xã hội đã được thiết lập cũng như những hoàn cảnh xã hội dành cho nó. Mặt thứ hai là, vai trò phê phán, phản bác và thậm chí cách mạng của tôn giáo.
Tuy nhiên, từ khi tuyên bố luận điểm: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen - Lời nói đầu” cho đến nay vẫn còn gây ra không ít những cuộc tranh luận với những ý kiến khác nhau và đã có những sự hiểu lầm, cách hiểu, tiếp cận không đồng nhất về luận điểm này.
Có người cho rằng luận điểm ấy không phù hợp với lịch sử, người khác lại nêu chỉ có hình thức tôn giáo thoái hóa nào đó mới là thuốc phiện, chứ không phải mọi tôn giáo nói chung. Có học giả lại muốn trở về tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử ra đời của luận điểm ấy để đi đến kết luận rằng: câu nói đó của Mác không hề có hàm ý phê phán tôn giáo mà coi tôn giáo như là loại thuốc dược liệu xoa dịu, giảm đau cho con người. Ngược lại vẫn có người cho rằng câu nói ấy mang ý nghĩa phê phán tôn giáo như một hiện tượng xã hội hoàn toàn tiêu cực. Theo bản dịch “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” thì từ “của” vừa chỉ sự sở hữu vừa chỉ nguồn gốc và cũng là nhu cầu của quần chúng. Nhưng có bản dịch “tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân”, từ “đối với” coi như chất ma tuý mà giai cấp thống trị đem đến cho dân ngoan ngoãn, chịu dựng. Tuy nhiên, luận điểm này không phải C.Mác là người nêu lên đầu tiên mà trước ông có nhiều người nói tương tự và được nhiều người tán thành hơn cả khi chính thức được đề cập và ám chỉ tính chất, chức năng của tôn giáo trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen - Lời nói đầu”. Vả lại muốn hiểu đầy đủ tinh thần, cả tính tích cực lẫn tiêu cực ở tôn giáo của luận điểm này của C.Mác thì phải đọc cả đoạn văn trước và sau luận điểm đó trong tác phẩm, đồng thời phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của nước Đức lúc đó.
V.I.Lênin đã nghiên cứu và đánh giá cao luận điểm nổi tiếng này. Trong tác phẩm “Về thái độ của công nhân đối với tôn giáo” năm 1909 V.I.Lênin nhắc lại luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của C.Mác và tính chất chính trị của tôn giáo, bổ sung thêm: “Tôn giáo là thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được sống một cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người”[3], đồng thời khuyên công nhân vứt bỏ thành kiến tôn giáo để cho bọn giả nhân giả nghĩa hưởng thụ còn cái cần là “giành lấy cuộc đời tốt đẹp hơn trên trần thế”. Với nghĩa đó, V.I.Lênin coi luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”  có vai trò quan trọng: “Câu nói đó của Mác là hòn đá tảng của toàn bộ quan điểm của Mác trong vấn đề tôn giáo”[4]. Câu nói đó đã được dùng làm cơ sở cho tất cả những bản tham luận của những người dân chủ - xã hội Nga về vấn đề tôn giáo.
Không thể nhìn tôn giáo qua mệnh đề của C.Mác đã bị cắt xén và phiến diện “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Phải nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng và nó đã, đang đồng hành với chủ nghĩa xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về Văn hóa tôn giáo, Đạo đức tôn giáo đã khơi dậy trực tiếp nhất những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng, cả người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo. Khi các giá trị văn hóa, đạo đức của tín ngưỡng, tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của văn hóa dân tộc một mặt đã thừa nhận sự đa dạng của văn hóa dân tộc, mặt khác tạo ra thêm một con đường đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác, phát huy tốt các giá trị văn hóa, đạo đức của tín ngưỡng, tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình “Tìm về dân tộc”…
Thiết nghĩ, luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của C.Mác cần phải được nhìn nhận, viện dẫn một cách khách quan, toàn diện, lịch sử và rất cụ thể trong tính hiện thực./.


[1] C.Mác.  Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG tr. 569
[2] C.Mác.  Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG tr. 570

[3] Lênin Toàn tập, Tập  17, Nxb Tiến Bộ.M. 1979, tr. 170
[4] Lênin Toàn tập, Tập  17, Nxb Tiến Bộ.M. 1979, tr.511

Nhận xét