HIỂU THÊM VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA CHIẾN LƯỢC "DIÊN BIẾN HÒA BÌNH"


Ngô Quyền
                                                                                                       
          Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, trước sự lớn mạnh của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên xô, phong trào cách mạng của giai cấp vô sản trên thế giới phát triển nhanh chóng. Trước tình hình đó, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã  coi Liên Xô là một thế lực đối trọng cản trở con đường thực hiện giấc mộng bá chủ thế giới của mình.
          Tổng thống Mỹ H.S.Truman đề ra “chiến lược ngăn chặn”, sử dụng thủ đoạn cứng rắn, coi trọng thủ đoạn quân sự để “ngăn chặn” sự “bành trướng” của Liên Xô, sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, “chiến lược ngăn chặn” không có hiệu quả cao; nhiều người trong chính giới Mỹ tỏ ra thức thời hơn, muốn tìm một phương thức khác có thể chống chủ nghĩa xã hội hiệu quả hơn. G.Kennan, Đại diện lâm thời sứ quán Mỹ ở Liên Xô, ngày 22-12-1946 đã đề nghị với Chính phủ Mỹ dùng các biện pháp chống Liên Xô toàn diện hơn, bao gồm bao vây quân sự, phong tỏa kinh tế, lật đổ chính trị.
          Tình hình thế giới từ cuối những năm 40 của thế kỷ 20 trở đi càng chứng tỏ chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên sức mạnh quân sự với nền tảng độc quyền hạt nhân đã bị phá sản. Tháng 1-1961, Kennedy nhậm chức Tổng thống Mỹ và đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay thế chiến lược “trả đũa ồ ạt” của Tổng thống Eisenhower trước đó. Chủ trương của Kennedy đối với địch thủ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là vừa phải giữ thái độ cứng rắn bằng sức mạnh quân sự, vừa có thái độ mềm dẻo bằng các biện pháp hòa bình, để “giải phóng” các nước này, đưa trở lại “thế giới tự do”. Với chính sách “mũi tên và cành ô liu”, nước Mỹ đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác cũng tăng cường thực hiện “diễn biến hòa bình”.
          Sang thập kỷ 80 của thế kỷ 20, thế giới có những biến chuyển lớn. Trọng điểm cạnh tranh quốc tế đã dần dần chuyển từ chạy đua vũ trang sang phát triển và cạnh tranh về sức mạnh tổng hợp quốc gia, trong đó lấy khoa học công nghệ làm tiên phong, kinh tế làm cơ sở và quân sự làm hậu thuẫn. Nắm bắt được xu thế phát triển mới, chủ nghĩa tư bản đã nhanh chóng ứng dụng khoa học-kỹ thuật hiện đại vào phát triển kinh tế và trang bị quân sự. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đạt được sự ổn định và có mặt phát triển. Trong khi đó, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc càng coi trọng chiến lược “diễn biến hòa bình”, lấy đó làm đòn tấn công chính chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
          Tổng thống Mỹ R.Reagan, từ đầu nhiệm kỳ thứ hai (1985-1988) đã chuyển hướng chiến lược đối ngoại của Mỹ, lấy “diễn biến hòa bình” làm biện pháp chính đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Reagan đề xuất cuộc “cách mạng dân chủ” với nội dung chính là dựa vào sức mạnh tổng hợp quốc gia của Mỹ, tăng cường quan hệ kinh tế, văn hóa, đẩy mạnh tuyên truyền tư tưởng... vào các nước xã hội chủ nghĩa để chuyển hóa các nước này; coi đây như là một cuộc “thập tự chinh Đông tiến giành tự do” của chủ nghĩa đế quốc, tấn công toàn diện vào các nước xã hội chủ nghĩa thông qua “diễn biến hòa bình”.
          Tháng 5-1989, Tổng thống Mỹ George H.W.Bush đưa ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn”, trong đó, linh hồn là “diễn biến hòa bình”. Bush cho rằng, cuộc đọ sức mang tính lịch sử giữa hai chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đã đi vào giai đoạn cuối cùng. Mục tiêu, biện pháp của chiến lược “vượt trên ngăn chặn” là lợi dụng chính sách cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện “diễn biến hòa bình”, lợi dụng hòa hoãn để tác động mọi mặt, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, dẫn đến sụp đổ, tan rã. Reagan coi Đông Âu là trọng điểm và Liên Xô là then chốt của “diễn biến hòa bình”.
 Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước dấy lên một cao trào tuyên truyền cho “tự do”, “dân chủ tư sản”, “chủ nghĩa đa nguyên”. Đẩy mạnh hoạt động này, chúng nhằm hai mục đích. Thứ nhất, chúng gây sức ép với Nhà nước ta chấp nhận và hợp pháp hóa sự có mặt trên chính trường những tư tưởng tư sản và những lực lượng chính trị đối lập chống chủ nghĩa xã hội. Đây là cái bẫy rất hiểm độc mà chúng đã từng sử dụng ở một số nước Đông Âu và Liên Xô. Nếu chúng ta không sáng suốt, tỉnh táo thì khó lường hết những hậu quả sẽ xảy ra đối với chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đối với Đảng và nhân dân ta. Thứ hai, nếu như về mặt công khai, mục tiêu này không đạt được, thì việc tuyên truyền dân chủ, tự do tư sản, tuyên truyền cho đa nguyên, đa đảng sẽ kích động, khuyến khích được những người bất mãn, cá nhân chủ nghĩa, non kém về chính trị nổi lên chống chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Do đó, khi sử dụng nội dung trên đây vào các hoạt động phá hoại nội bộ Nhà nước ta, chúng đã “cấy” vào xã hội ta tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội và tạo thế cho các lực lượng phi xã hội chủ nghĩa phát triển và có chỗ đứng ở Việt Nam. Đến một lúc nào đó, khi có thêm “chất xúc tác” vào, các lực lượng này sẽ là những nhân tố tạo ra “ngòi nổ”, chống phá gây rối, làm phức tạp hóa tình hình.
Bản chất của hoạt động tuyên truyền các nội dung trên đây là chống chủ nghĩa xã hội. Nó làm tan rã, làm triệt tiêu những giá trị tư tưởng của chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, nó là những yếu tố kích thích sự phát triển các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa trong lòng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tất cả những việc làm và sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước trên mặt trận chính trị, tư tưởng trong thời gian qua đã gây tác động tiêu cực không nhỏ đến tình hình tư tưởng - chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Những kẻ cơ hội, xét lại, những phần tử bất mãn đã không tiếc công, tiếc sức tuyên truyền cho chủ nghĩa tư bản và con đường tư bản chủ nghĩa. Không ít người ngây thơ về chính trị đã ăn phải “bả độc” đó với những mức độ khác nhau.
Như vậy, chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hiện nay là dùng vấn đề “tự do”, “dân chủ tư sản”, “đa nguyên chính trị” gây sức ép, đòi Nhà nước Việt Nam thay đổi bản chất chế độ. Do đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không để bị động, bất ngờ./.
                                                                    
                                                                                          
  


Nhận xét