NGHIÊN CỨU, QUÁN TRIỆT QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VÀO GIẢNG DẠY LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY

Niềm tin
Vấn đề nghiên cứu quán triệt các quan điểm cơ bản trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy Triết học Mác - Lênin, trong đó có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, có ý nghĩa thiết thực, góp phần nghiên cứu quán triệt quan điểm của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất v.v… ở nước ta giảng dạy lý luận hình thái kinh tế - xã hội cần tập trung nghiên cứu, quán triệt và đưa các quan điểm cơ bản trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy ở từng nội dung cụ thể sau:
    Thứ nhất, lý luận hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận về thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội; là một hệ thống toàn vẹn của các phương diện đời sống xã hội tồn tại trong một cấu trúc thống nhất chặt chẽ, sự tác động qua lại lẫn nhau của các quan hệ xã hội, qua đó khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các phương diện sinh hoạt vật chất và tinh thần nói chung. Đồng thời, sản xuất vật chất mang tính lịch sử - xã hội: Tính xã hội là quá trình lao động cải biến tự nhiên con người không phải làm với tư cách riêng lẻ mà là những thành viên của tập thể, của cộng đồng người và gắn với một xã hội cụ thể; Tính lịch sử: ở mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, sản xuất vật chất khác nhau (khác nhau ở mục tiêu, phương thức sản xuất). 
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Triết học Mác - Lênin về sản xuất vật chất, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng, cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến phát triển kinh tế tạo cơ sở nền tảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong giảng dạy vai trò của sản xuất vật chất thì cần tập trung nghiên cứu quán triệt một trong 12 nhiệm vụ tổng quát, đó là: “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”[1].
Đồng thời, nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy những quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt trong công cuộc đổi mới, đó là: “Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hoá, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[2]. Đồng thời, thực hiện “Đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực”[3].
 Thứ hai, lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác nhau về bản chất xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau phù thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. C.Mác chỉ rõ: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình. Con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ”1. Sự phù hợp này cũng chính là yêu cầu của quy luật là sợi dây liên hệ quy định sự hình thành của quan hệ sản xuất và buộc quan hệ sản xuất phải tất yếu biến đổi theo sự biến đổi của lực lượng sản xuất, nếu không có sự phù hợp thì các mối quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất sẽ là không xác định, không có “điểm tựa” để tác động lẫn nhau của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất.
 Đại hội XII của Đảng đã tổng kết, phát triển nhiều vấn đề mới về sự vận  dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cần tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy những quan điểm cơ bản trong Đại hội XII sau:
 Một là, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy 12 Nhiệm vụ tổng quát, trong đó tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy nhiệm vụ thứ 2 là: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp”2. Và nhiệm vụ thứ 12, đó là: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...”3.
Hai là, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy một trong năm bài học tổng kết sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đó là: “đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”[4].
Ba là, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy quan điểm Đại hội XII của Đảng về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy luận điểm khái quát bao trùm đó là: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[5]. Đồng thời, “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế” và “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh… Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”[6].
Thứ ba, lý luận hình thái kinh tế - xã hội khẳng định lịch sử phát triển của của các hình thái kinh tế - xã hội là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cố nhiên, sự tác động đến quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên còn thể hiện sự tác động trực tiếp, quan trọng của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, sự vận dụng các quy luật chung của xã hội còn phù thuộc điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc tạo nên tính đặc thù trong sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Vì vậy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”[7].
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói riêng vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
 Cụ thể là, con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy nội dung sự phát triển của của các hình thái kinh tế - xã hội là một tiến trình lịch sử tự nhiên, cần tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy những quan điểm cơ bản trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng những quan điểm cơ                  bản sau:
Một là, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy 5 bài học kinh nghiệm tổng kết sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Trong đó ở nội dung này cần tập trung quán triệt bài học thứ nhất, đó là: “trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”[8].
Hai là, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy một trong những mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đó là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”[9].
Ba là, tập trung nghiên cứu quán triệt và đưa vào giảng dạy vấn đề then chốt trong việc chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, đó là quan điểm: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”[10].
Như vậy, có thể nói, nghiên cứu quán triệt và đưa quan điểm Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy môn học này, góp phần thực hiện tốt hơn vai trò của triết học đối với việc hiện thực hoá nghị quyết của Đảng, góp phần thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr .77.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 17.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 23.
1 C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, tr. 552. 
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 77.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 80.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 69.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 102.
[6] Sđd, tr. 103.
[7] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 198.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 69.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 76.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016,  tr.199.

Nhận xét