MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, VẬN DỤNG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VÀO GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
Lẽ Phải
Phương pháp nói chung
và phương pháp trong nghiên cứu, giảng dạy triết học nói riêng có vị trí quan
trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động. Hiện nay, luận giải
phương pháp nghiên cứu, vận dụng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào giảng dạy
triết học là một phương diện có ý nghĩa to lớn. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
là lý luận, là cương lĩnh chính trị, có giá trị định hướng trong nghiên cứu và
giảng dạy nhiều môn khoa học, trong đó có nghiên cứu, giảng dạy triết học.
Mỗi hoạt động đều
có phương pháp cụ thể. Phương pháp khai thác nội dung phục vụ giảng dạy triết học
vừa bao hàm cái chung, vừa có nét đặc thù. Đã là phương pháp đều phải thể hiện
cách thức, bước đi qua các khâu được hình thành trong tư duy trước khi bước vào
hoạt động. Phương pháp gắn liền với mục đích. Cùng một mục đích có thể phải
dùng nhiều phương pháp. Tuy nhiên trong các phương pháp có phương pháp giữ vai
trò chủ đạo, đặc trưng cơ bản. Phương pháp nghiên cứu, vận dụng Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng vào giảng dạy triết học cũng phải phải tuân theo cái chung ấy,
đồng thời phải vượt lên khai thác tư duy triết học của Đảng được thể hiện trong
các luận điểm lý luận chính trị.
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận hệ thống - cấu
trúc trong khai thác tinh thần triết học ở Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Tiếp
cận hệ thống - cấu trúc là đặc trưng của phương pháp nghiên cứu triết học. Với
tính cách là một cương lĩnh chính trị của Đảng trong nhiệm kỳ 2016 - 2020, Nghị
quyết Đại hội XII là một hệ thống lý luận gồm các nội dung cơ bản ở từng lĩnh vực
cụ thể. Hệ thống lý luận ấy phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam với những đặc điểm;
với các mâu thuẫn, các quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo. Hiện
thực xã hội Việt Nam hiện nay được khái quát tập trung nhất trong dự báo tình
hình thế giới và đất nước (từ trang 70 đến
trang 75). Qua tiếp cận hệ thống - cấu trúc để thấy Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng là sản phẩm của các luận điểm, quan điểm khác nhau trong tính chỉnh thể,
thống nhất, đồng thời là sản phẩm của tư duy khái quát tầm triết học, thể hiện
tính lôgíc và lịch sử của 30 năm đổi mới. Vận dụng phương pháp lôgíc và lịch sử
để tiếp cận và luận giải những bước tiến, sự bổ sung, hoàn thiện các quan điểm ở
từng lĩnh vực và trên tổng thể toàn bộ hệ thống. Đến nay, những vấn đề cơ bản ở
từng lĩnh vực về con đường cách mạng Việt Nam đã khá sáng rõ, mà cốt lõi là
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Phương pháp tiếp cận và luận giải theo hướng ấy sẽ cho thấy
một tinh thần triết học duy vật chứng sâu sắc; một tư duy biện chứng duy vật của
Đảng ở trình độ cao.
Phương pháp tiếp cận
từ những vấn đề lớn (15 vấn đề lớn của Nghị quyết) trong tính hệ thống thể hiện
ở hệ thống các mâu thuẫn biện chứng. Trên cơ sở ấy tiến đến khai thác tư duy về
các mâu thuẫn ở mỗi vấn đề lớn và đến từng quan điểm, luận điểm cụ thể và thực
hiện phương pháp hệ thống hóa lại. Chỉ
có dùng phương pháp tiếp cận, khai thác, khái quát này mới cho những sản phẩm
triết học và phục vụ cho giảng dạy mới thấy hết thế giới quan, phương pháp luận
triết học cũng như tư duy triết học có tính đặc thù và sức thuyết phục cao.
Thứ hai, phương pháp khai thác tư duy biện chứng
duy vật của Đảng trong Nghị quyết Đại hội XII vào giảng dạy triết học.
Phương pháp tiếp cận
và khai thác nội dung ở góc độ này là qua các thao tác tư duy “bóc, tách” tinh
thần, nội dung, giá trị triết học ra khỏi những luận điểm, quan điểm thuộc lý
luận chính trị và sau đó hệ thống hóa lại để thấy tính lôgic, hệ thống và phục
vụ cho giảng dạy. Những luận điểm trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng biểu hiện
ở ngôn ngữ lý luận chính trị và phải hiểu tầng sâu của nó là tư duy biện chứng
duy vật trong nhiệm kỳ 2016 - 2020. Ở khái quát kinh nghiệm thứ hai: “Nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới;
đồng thời, nắm bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh
một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp…”[1]. Tinh thần triết học của
tư tưởng trên thể hiện rõ thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng và
rất rõ một tư duy vượt trước, dự báo khoa học. Khai thác tinh thần ấy thể hiện
sắc thái, đặc trưng, đồng thời có thể phục vụ trực tiếp cho giảng dạy triết học
ở bất cứ nội dung cụ thể nào.
Từ tiền đề ấy tiến đến những khai thác từng luận điểm cụ thể
để thấy nội dung, giá trị triết học về tính khách quan trong phản ánh, khái
quát của Đảng. Quá trình vận dụng vào giảng dạy là dùng tư duy triết học duy vật
biện chứng của Đảng trong Nghị quyết Đại hội XII được bóc, tách ra. Điều đó cho
thấy, tư duy triết học của Đảng đã vượt lên, lọc bỏ những dấu ấn của duy tâm,
siêu hình như Nghị quyết Đại hội VI của Đảng chỉ ra. Nghị quyết Đại hội VI của
Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta mắc phải chủ quan duy ý chí”. Qua đó để chứng minh
cho tư duy của Đảng đã thể hiện thế giới quan, phương pháp luận khoa học một
cách triệt để.
Từ những tiền đề trên tiến đến tiếp cận tư duy triết học của
Đảng về các nguyên lý của triết học Mác - Lênin. Góc độ tiếp cận này thể hiện
rõ là những vấn đề về mối liên hệ phổ biến và phát triển. Qua các quan hệ lớn,
cũng như qua các luận điểm đánh giá tình hình thế giới và trong nước có thể
khai thác được những nội dung phục vụ cho giảng dạy các nguyên lý của triết học.
Tinh thần về hội nhập quốc tế cũng như quan hệ giữa các lĩnh vực ở 15 vấn đề lớn
cho thấy tinh thần của tư duy về mối liên hệ phổ biến rất sâu sắc. Sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay gắn bó chặt chẽ với tình hình diễn biến của thế giới; giữa
các lĩnh vực của đất nước cũng trong quan hệ thống nhất với nhau có tính lôgic
bao trùm ở tất cả các luận điểm trong Nghị quyết Đại hội XII. Các luận điểm
trong đó đã khắc phục tư duy có tính “khép kín, siêu hình” của những năm trước
đổi mới. Tinh thần về phát triển “bền vững” vừa thể hiện tinh thần của nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến, vừa thể hiện sự bổ sung mới về tính biểu hiện phong
phú của phát triển. Phát triển không đơn thuần là sự xuất hiện cái mới, mà sự
xuất hiện ấy còn được nhận thức và vận dụng để tạo ra tính đồng bộ, đồng thời,
giữa các lĩnh vực. Những quan điểm về phát triển kinh tế “bằng mọi giá” bất chấp
những tổn thất ở mặt xã hội đã được tư duy biện chứng duy vật của Đảng vượt
qua. Nghị quyết Đại hội XII chỉ rõ: “ …giải quyết hài
hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân”[2].
Khai thác vấn đề này có thể hiểu nó là nội hàm của khái niệm phát triển bền vững.
Nội dung này có giá trị về phương pháp là các chủ thể vận dụng vào nghiên cứu
các vấn đề khác có tinh thần tương đồng và khái quát hóa lại thành hệ thống phục
vụ cho giảng dạy triết
học.
Phương pháp tiếp cận, khai thác
tinh thần triết học qua các luận điểm về tính quanh co, phức tạp của
phát triển được biểu hiện trong tương quan giữa thời cơ, vận hội và khó khăn,
thách thức, đặc biệt là quan điểm về những diễn biến“ khó lường” trong bối cảnh
hiện nay. Những luận điểm thể hiện ở mặt này ở từng nội dung lớn và nhỏ đã thể
hiện tư duy triết học về tính quanh co của phát triển rất cụ thể. Nhóm những nội
dung có tính chất tương tự như quan điểm: “Trên thế giới, trong những năm tới
tình hình sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, nhưng hoàn bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn”[3]; “Tình hình chính trị - an
ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường”[4]; “Tình hình chính trị - xã
hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định”[5].
Tiếp cận, khai thác nội dung về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội với những bước, giai đoạn cụ thể tiến đến thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,… để thấy rõ tư duy triết học của
Đảng về quy luật lượng - chất. Tiếp cận tinh thần triết học này qua quan điểm:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều
kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[6]. Qua phương pháp khai thác
tinh thần triết học này, định hướng cho khai thác các luận điểm khác có nét
tương tự và hệ thống hóa lại thành các luận cứ cho luận chứng các luận điểm triết
học trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Tiếp cận, khai thác những quan điểm có tính chất chung về
tinh thần của mâu thuẫn biện chứng duy vật phục vụ cho giảng dạy. Tiếp cận và
luận giải tư duy biện chứng duy vật ở mặt mâu thuẫn biện chứng của Đảng. Nghị
quyết Đại hội XII chỉ rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất
là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới,...”[7]. Cùng với nó là khai thác
những quan hệ lớn: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật của thị trường và
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước và
thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ…”[8]. Đây là nội dung định hướng
cho phương pháp khai thác các quan điểm khác trong Nghị quyết Đại hội XII và
sau đó tiếp tục dùng phương pháp hệ thống hóa lại. Qua hệ thống hóa lại để vừa
thấy tính hệ thống, tinh lô gích và làm giàu thông tin phục vụ cho giảng dạy
triết học. Mấu chốt của phương pháp này là bóc, tách tinh thần tư duy biện chứng
duy vật trong các luận điểm thể hiện quan hệ giữa hai mặt đối lập trong sự thống
nhất.
Thứ ba, tiếp cận, khai
thác tinh thần triết học từ những luận điểm về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn vào giảng dạy triết học.
Vấn đề này bắt đầu từ phương pháp khai thác luận điểm: “… đổi
mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn
đặt ra”[9]. Đây là một trong những
bài học từ tổng kết 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhưng có giá trị của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Từ phương pháp tiếp cận, khai
thác này tiếp tục mở rộng vào tìm hiểu và bóc tách tinh thần nguyên tắc thống
nhất ấy để làm giàu thông tin phục vụ cho giảng dạy triết học phong phú, sinh động.
Khai thác và hệ thống hóa những
quan điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XII luôn là hướng “mở” về phương pháp. Mỗi
chủ thể có thể tự hình thành cho mình một phương pháp riêng, nhưng thống nhất ở
phương pháp tiếp cận hệ thống từ cao xuống thấp; thống nhất ở sự bóc, tách tinh
thần, giá trị triết học ra khỏi những quan điểm chính trị và hệ thống hóa lại
có tính lôgíc để tiện phục vụ giảng dạy triết học. Tổng hợp lại là tiếp cận,
khai thác các quan điểm trong Nghị quyết và tiến đến phát hiện tư duy triết học
của Đảng trong xây dựng Nghị quyết thì sẽ có nhiều thông tin cho giảng dạy triết
học./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016,
tr. 64.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,, 2016, tr. 87.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 70.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 71.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 75.
[6] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 90.
[7] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 74.
[8] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 80.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,, 2016, tr. 69.
Nhận xét
Đăng nhận xét