MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VÀO GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC HIỆN NAY

Hùng Phương
Sức sống của Triết học Mác - Lênin nói chung là luôn gắn với thực tiễn. Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương pháp luận triết học   Mác - Lênin luôn gắn với thực tiễn Việt Nam; các nội dung của nó được hiện thực hóa trong đường lối, quan điểm của Đảng, sát tình hình thực tiễn Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta tiếp tục khẳng định, hoàn thiện quan điểm, đường lối của Đảng ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu các kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Hệ thống phương pháp luận của triết học Mác - Lênin tham gia trong tất cả các nội dung của Văn kiện. Trên các mặt kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng đảng, nhà nước và hệ thống chính trị… đều tiếp cận từ hệ thống nguyên tắc khoa học đó là: khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển, nguyên tắc thực tiễn, nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, từng nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin có thể đi sâu vào những nội dung xác định:
Thứ nhất, nguyên tắc khách quan, phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong các nội dung của Văn kiện Đại hội XII của Đảng
Với tư cách là nguyên tắc xuất phát của triết học mácxít, Đảng ta khẳng định sự tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới; nguyên tắc khách quan được quán triệt trong tất cả các nội dung của Văn kiện. Đảng ta đã căn cứ vào điều kiện, tình hình, khả năng thực tế, vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, chống chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Văn kiện Đại hội XII đã Đánh giá khách quan tình hình, dự báo tình hình thế giới, khu vực và đất nước trong những năm tới, là vấn đề xuất phát để đề ra chủ trương đúng. Đó là, sự nhìn nhận đúng đắn các vấn đề quốc tế, trong nước và các mặt cơ bản của xã hội, từ đó định hướng mục tiêu, nhiệm vụ sát thực, khoa học và khả thi. Đảng ta luôn chú trọng đánh giá giá khách quan đi từ tiếp cận hai mặt của vấn đề. Cùng với những thành tựu, Đại hội XII đã chỉ ra những khó khăn, thách thức lớn đối với sự phát triển đất nước. Việc đánh giá trên quan điểm khoa học, tiếp cận 2 mặt của vấn đề, tránh “lạc quan tếu”, dễ dẫn tới chủ quan duy ý chí, hay bi quan dẫn tới tâm trạng, tâm tư trong nhân dân.
Với cách nhìn biện chứng, khách quan, toàn diện, cụ thể và phát triển, Đảng ta đã nhận định: “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng”1; đáng kể là nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, năm sau cao hơn năm trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế bước đầu đạt kết quả tích cực, công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục có bước chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế có bước phát triển. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển                   đất nước.
Thứ hai, quan điểm toàn diện, trọng điểm trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng ta.
Một trong những điểm mới được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XII là việc đánh giá một cách toàn diện về sự vận động, biến đổi của tình hình châu Á - Thái Bình Dương; trong đó có khu vực Đông Nam Á với những tác động thuận và nghịch chiều đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta nhận định: “Đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt và phức tạp. ASEAN trở thành Cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài”[1]. Sự vận động, biến đổi của khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay có nhiều điểm mới, rất khác so với tình hình 5 năm trước đây, nó đặt ra thời cơ và thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của                Việt Nam.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề cập toàn diện các nội dung, 15 vấn đề cơ bản, 6 nhiệm vụ trọng tâm nhiệm kỳ    2016  - 2020. Điều rất rõ nhận thấy trong từng các nội dung của Văn kiện đều thể hiện quan điểm toàn diện, chuyên sâu, trọng điểm. Hơn nữa, triết học trong xã hội (hình thái, giai cấp, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng…) đều được đề cập một cách toàn diện và cụ thể hóa trong tình hình xã hội Việt Nam. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng đều được đề cập một cách toàn diện sâu sắc. So với báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Báo cáo chính trị rút ra 5 bài học, song trong mỗi bài học đều có nội dung mới; đặc biệt là bài học thứ tư có ý nghĩa đột phá; “phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết”[2].
Thứ ba, quan điểm đổi mới, phát triển và động lực phát triển trong Văn kiện XII của Đảng.
Quan điểm đổi mới, phát triển và động lực phát triển, là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, được Đảng ta xác định trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là từ năm 1986.
Xuất phát từ tình hình thực tế, Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới, trong đó nhấn mạnh: “Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hoà các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ;...”[3]. Từ đó, Đảng ta chỉ ra mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới 2016 - 2020. Trong đó nhấn mạnh tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; coi đó là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Động lực phát triển qua giải quyết tốt các quan hệ, đặc biệt là biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, Đảng ta đã chú trọng đổi mới về chính trị, thực hiện biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Trong đó đặc biệt là tập trung về vấn đề xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Quan điểm biện chứng, vấn đề thống nhất hữu cơ Đảng lãnh đạo, nhà nước quan lý, nhân dân lao động làm chủ được thể thiện sâu sắc trong Văn kiện. Đảng ta đã khẳng định “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”[4]. Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và sự cần thiết phải: “Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”[5]
Trong đó, đi từ cơ sở lý luận và thực tiễn để hiểu rõ các vấn đề mới, triển khai đúng, đủ, sáng tạo, sát thực tiễn và thực hiện thắng lợi các tiêu chí, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội XI đã đề ra trên các nội dung trọng yếu nhất, đặc biệt là các quyết sách chiến lược, đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ tư, nguyên tắc thực tiễn - thống nhất lý luận và thực tiễn trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Điểm nổi bật trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thể hiện nhất quán các quan điểm cơ bản, cốt lõi, xuyên suốt trong các các nhiệm vụ cụ thể. Xác định những vấn đề mới, cấp bách nảy sinh từ thực tiễn công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII bám sát hơi thở cuộc sống, phản ánh sinh động, chính xác tình hình đã và đang diễn ra trên thế giới, khu vực và ở Việt Nam.
Các luận điểm mới trình bày trong văn kiện Đại hội XII của Đảng đều xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn nên có sức sống và có giá trị tham mưu, chỉ đạo tốt, đã đạt đến tầm tư tưởng. Công tác nghiên cứu, chỉ ra những nội dung trọng yếu, nhất là những điểm mới về lý luận, phục vụ việc học tập, quán triệt và tuyên truyền Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cần bám sát vào sự đánh giá, nhận định của Đảng đã khẳng định tại Đại hội XII; đặc biệt là các nhận định, đánh giá về những ưu điểm, thành tựu; hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn rất tốt. Bản thân các nhận định, đánh giá có chứa đựng nội dung mới vì nó xuất phát từ tình hình mới, là những kết luận rút ra từ công tác tổng kết thực tiễn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Đồng thời, đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương; tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng, lý luận trong nhiệm kỳ tới là: “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”[6].
Có thể nói, hệ thống phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực tiếp là chủ nghĩa duy vật biện chứng tham gia trong tất cả các nội dung của Văn kiện. Tuy nhiên, mỗi nguyên tắc phương pháp luận của triết học                   Mác - Lênin có thể hiện thực sâu sắc vào những nội dung xác định.  Giảng dạy lý luận chính trị ở các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, bằng những nguyên tắc, phương pháp luận triết học Mác - Lênin để tiếp cận, quán triệt, vận dụng các quan điểm của Đảng ta trong các nội dung giảng dạy cụ thể, triển khai Nghị quyết Đại hội XII, trong chương trình, giáo trình giảng dạy lý luận chính trị sát với từng đối tượng./. 



1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 58.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016,  tr. 73.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 69.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016,  tr. 76.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 109
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 210-211
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 201.

Nhận xét