CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG TỰ DO NGÔN LUẬN TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 Hồng Hạc

Tự do và tự do ngôn luận - đó là giá trị và là quyền con người. Đề cập đến điều này, không phải tới tận xã hội cận hiện đại mới có, mà từ thời cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông đều nêu lên rồi. Chẳng hạn, Solon, vị chính khách thời cổ đại Hy Lạp cho rằng, muốn có tự do và công bằng thì chúng ta phải đặt luật pháp ngang hàng với sức mạnh (chính trị). Tới thế kỷ XVIII, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp đã chính thức khẳng định: “tự do là quyền của con người được làm tất cả những gì mà không phương hại đến quyền của người khác”.

Đối với Việt Nam, vào năm 1919, quyền tự do ngôn luận lần đầu tiên được nêu lên khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành chính thức sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc để thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước ký vào Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất được tổ chức tại Véc-xây (cách thủ đô Paris của nước Pháp 14 km) mà trong đó, quyền tự do ngôn luận được đặt ở vị trí thứ 3 trong 8 điều của bản Yêu sách. Kể từ đó, nhân dân Việt Nam đã trải qua hơn 25 năm đấu tranh đầy cam go, gian khổ để hiện thực hóa thành công cuộc cách mạng vô sản, giành lại nền độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam vào năm 1945. Đặc biệt, năm 1946, quyền tự do ngôn luận được trịnh trọng ghi nhận và bảo đảm thực hiện tại điều 10 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cho tới hiện nay, quyền tự do ngôn luận tiếp tục được khẳng định và bảo đảm thực hiện tại điều 25 Hiến pháp 2013.

Khái lược một số thông tin lịch sử để thấy rằng, nhân loại, trong đó có nhân dân Việt Nam, khi thức tỉnh và đấu tranh cho những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, đã phải trải qua những cuộc đấu tranh khốc liệt, thậm chí hy sinh xương máu của bao thế hệ. Vậy thì, muốn thực hiện tự do ngôn luận, trong đó cụ thể ở đây là tự do ngôn luận trên mạng, đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tuân thủ và đáp ứng một số yêu cầu sau:

Một là, công dân Việt Nam phải hiểu biết đầy đủ, chính xác pháp luật, biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Chỉ khi thực hiện quyền tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật sẽ mang đến cho họ quyền tự do, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác.

Hai là, tự do ngôn luận, nhất là tự do ngôn luận trên mạng là tự tương tác của cá nhân có thể diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, ít chịu sự giám sát, phê duyệt mang tính tổ chức, chính vì vậy đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tự chịu trách nhiệm đối với mỗi lời nói, câu viết của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng xã hội, không phải thích nói và viết một cách bừa bãi, cảm tính nhất thời. Thực hiện quyền tự do ngôn luận trên mạng phải chính đáng, có tính mục đích tiến bộ rõ ràng, mang tính xây dựng, mang đến điều tốt đẹp, tích cực cho bản thân, cộng đồng, xã hội và quốc gia.

Ba là, tự do ngôn luận trên mạng là được bày tỏ quan điểm, chính kiến trên các báo mạng, diễn đàn, mạng xã hội, v.v.. Cho nên, cá nhân công dân bên cạnh việc tuân thủ những quy định của pháp luật chung, còn phải tuân thủ Luật Báo chí, đưa tin lên mạng phải trung thực, đúng sự thật, không được bóp méo, cắt gọt gây hiểu lầm hoặc khi đánh giá, phê bình phải có căn cứ rõ ràng.

Bốn là, thực hiện quyền tự do trên mạng phải phù hợp với văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, lời nói hay câu viết cần phải phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt. Khi bình phẩm, nhận xét phải có lời lẽ ôn hòa, văn minh, lịch sự, không được sử dụng ngôn từ cực đoan, gay gắt hay lai căng mang tính lăng mạ, sỉ nhục, kỳ thị người khác.

Thực hiện quyền tự do ngôn luận nói chung và tự do ngôn luận trên mạng nói riêng là điều hoàn toàn chính đáng và được bảo đảm thực hiện trong xã hội. Mỗi cá nhân công dân cần nhận rõ quy định pháp luật liên quan, nhận rõ tư duy và hành vi xử sự của bản thân, góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam tiến bộ, văn minh và phát triển./.


 

 

Nhận xét