MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

TH

Phát triển kinh tế và công bằng xã hội là một trong những nội dung cốt lõi trong chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm trên được thực tiễn phát triển mọi mặt của đất nước trong 35 năm đổi mới chứng minh tính đúng đắn. Trong bối cảnh hiện nay, tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa quan điểm trên của Đảng ta nhằm góp phần vào thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới là vấn đề đang được đặt ra cần thiết, cấp bách.

1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội

Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển

Phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu xuyên suốt của Đảng ta trong các thời kỳ cách mạng. Đương nhiên, mục tiêu ấy thể hiện rõ nhất, nổi bật nhất từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Bởi vì, thời điểm đó, sự chín muồi của điều kiện khách quan cũng như nhân tố chủ quan, đặc biệt là những bài học kinh nghiệm của 10 năm lãnh đạo đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, cho phép Đảng ta nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về sự cấp thiết của phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội cũng như quyết tâm hành động để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt vấn đề về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội, xác định: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”[1]. Đại hội VII nêu quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”[2], quan điểm đó trở thành tư tưởng xuyên suốt được bổ sung, phát triển ở các kỳ Đại hội sau này của Đảng.

Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nhất quán tư tưởng về sự gắn kết hài hòa giữa mục tiêu phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội một cách bền vững; chủ trương: “Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”[3].

Đảng ta chỉ rõ, kinh tế tăng trưởng, phát triển đến đâu, phải thực hiện ngay công bằng xã hội đến đó; coi trọng gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Nghĩa là, không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; mà phải làm cho mỗi chính sách kinh tế đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội và con người, ngược lại, mỗi chính sách xã hội góp phần tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Theo đó, công bằng xã hội không đứng bên lề phát triển kinh tế mà luôn đồng hành, song hành, gắn kết chặt chẽ trong từng bước, từng chính sách cũng như trong toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế, trở thành mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế. Đó là điểm nhất quán, là tính ưu trội, thể hiện bản chất nhân văn, tến bộ, cách mạng của mô hình phát triển đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công trình “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” cũng nhấn mạnh: “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”[4] là một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Kinh nghiệm cũng cho thấy, một số nước có quan điểm tuyệt đối hóa nhân tố kinh tế, cho rằng, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định sự sống còn của một đất nước từ đó tập trung cho tăng trưởng kinh tế. Với quan niệm như vậy, nhiều quốc gia đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, song lại phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội. Vì quá tập trung cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà xem nhẹ sự phát triển xã hội, không chú ý tới sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, suy đồi đạo đức, môi trường sinh thái bị hủy hoại, xuất hiện những nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn và khủng hoảng xã hội. Trái lại, có quan điểm đề cao, tuyệt đối hóa công bằng xã hội, mong muốn có ngay một xã hội công bằng, bình đẳng, không có áp bức, bất công, mọi người được sống tự do và hạnh phúc. Từ đó, ở một số nước đã không căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bất chấp các quy luật kinh tế, nhanh chóng thực hiện công bằng xã hội, phân phối bình quân, cào bằng, đẩy kinh tế, xã hội rơi vào khủng hoảng. Điều đó càng khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta về gắn kết hài hòa giữa mục tiêu phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội một cách bền vững.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - nhân tố cốt lõi, nền tảng để đảm bảo công bằng xã hội

Hiện nay, xuất hiện quan điểm đối lập công bằng xã hội với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm bác bỏ, phủ định đường lối đổi mới, phủ nhận thành tựu trong nhận thức và giải quyết vấn đề công bằng xã hội. Có quan điểm cho rằng không có mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chỉ cần phát triển kinh tế thị trường thuần túy, theo quy luật và sự điều tiết của thị trường sẽ đem lại công bằng, bình đẳng xã hội và sự giàu có, thịnh vượng. Từ đó đi đến phủ nhận vai trò và sự gắn kết giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với thực hiện công bằng xã hội. Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta hoàn toàn bác bỏ những luận điệu trên.

Đảng ta chủ trương thực hiện công bằng xã hội, tức là đảm bảo cho các thành viên xã hội được hưởng thụ tương xứng với đóng góp của họ cho xã hội, nghĩa vụ đi liền với quyền lợi cũng như sự bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và nguồn lực phát triển. Muốn thực hiện tốt công bằng xã hội điều kiện căn bản là phải bảo đảm công bằng trong phân phối. Đó là quá trình phân chia kết quả sản xuất và các nguồn lực cho các nhu cầu sản xuất và sinh hoạt đời sống. Phân phối có vị trí ý nghĩa kinh tế - xã hội rất quan trọng trong toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy, cần có chính sách phân phối đúng đắn trong từng thời kỳ. Đảng ta nêu rõ, cần “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”[5] [8, tr.8]. Bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo đảm công bằng xã hội và không thực hiện một cách đầy đủ công bằng trong phân phối với hàm nghĩa như trên.

Kinh tế thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, tức là bằng cách phân phối lợi nhuận dựa trên lao động và hiệu quả kinh tế theo quy luật của thị trường với nguyên tắc người có đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, đóng góp ít thì hưởng ít. Trên thực tế, hình thức phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế theo quy luật của kinh tế thị trường cũng đang chứa đựng sự bất bình đẳng. Bởi vì, trong thời kỳ quá độ không tránh khỏi “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia”[6], đó là một hạn chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Mặt trái của kinh tế thị trường dẫn đến những vấn đề bất công xã hội. Ph.Ăngghen đã từng cảnh báo: “Sự biến động không ngừng của giá cả, do những điều kiện của cạnh tranh tạo ra, đang làm cho thương nghiệp mất sạch những dấu vết cuối cùng của đạo đức”[7]. Cạnh tranh khốc liệt trong kinh tế thị trường khiến cho “mỗi người đều phải ra sức nắm lấy thời cơ thuận lợi nhất để mua và bán, mỗi người đều phải trở thành kẻ đầu cơ, nghĩa là gặt hái ở nơi mà y không gieo trồng, làm giàu trên sự thua lỗ của những người khác, tính toán trên sự rủi ro của người khác hoặc lợi dụng cơ hội để kiếm lời”[8]. Trong cơn “gió lốc” ấy, kinh tế thị trường gây ra hàng loạt những vấn đề như phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng, tệ nạn xã hội, suy thoái môi trường,v.v..

Từ đó, để khắc phục những “thất bại” của thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu công bằng xã hội phải cần tới vai trò của nhà nước. Sự điều tiết, can thiệp cần thiết của nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại là cơ sở để bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến của họ cho xã hội trên những lĩnh vực mà thị trường không làm được. Đương nhiên, nhà nước thực thi chiến lược phát triển kinh tế, thực hiện phân phối lại, song không được làm triệt tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế.

Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn (kinh tế thị trường) chính là nhằm mục đích tôn trọng quy luật kinh tế khách quan, giải phóng sức sản xuất, khơi mở, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo và năng lực chủ quan của mỗi con người. Đồng thời và cùng với đó, thực hiện phân phối thông qua các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội (định hướng xã hội chủ nghĩa) nhằm bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những nhóm người dễ bị tổn thương và yếu thế trong xã hội. Cách thức phân phối theo các nguồn lực khác thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội khắc phục được các điểm yếu cốt tử của kinh tế thị trường, nắn kinh tế thị trường phục vụ cho các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là phương thức để vừa phát triển kinh tế mạnh mẽ, vừa giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các ri ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân[9]; đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phòng ngừa xu hướng tự phát chệch quỹ đạo phát triển kinh tế. Có như vậy mới đảm bảo được tính thực tiễn và bền vững của chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế và công bằng xã hội mới được thực hiện đúng nghĩa.

Thực hiện công bằng xã hội phải hướng đến thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững

Đảng ta khẳng định, tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội, ngược lại, công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế. Không thể có công bằng xã hội mà không dựa trên cơ sở kinh tế phát triển, ngược lại, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong điều kiện xã hội bất bình đẳng. Bài học về sự thành công và chưa thành công trước đổi mới cho Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn vai trò và quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Trên cơ sở đó Đảng ta thực hiện đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy, nhận thức các quy luật kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, đã khắc phục kịp thời những nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế xã hội, đưa đất nước phát triển, tiến bộ vượt bậc.

Công bằng xã hội tác động đến phát triển kinh tế thể hiện ở sự phù hợp của chính sách xã hội với trình độ phát triển và thực lực của nền kinh tế. Chính sách xã hội vượt trước hay đi sau tăng trưởng, phát triển kinh tế đều không phù hợp, sẽ dẫn đến lực cản đối với quá trình phát triển. Chính sách xã hội phù hợp, không vượt quá khả năng, điều kiện cụ thể của nền kinh tế giúp phát triển kinh tế ổn định, bền vững; tránh tăng trưởng nóng nhưng mạo hiểm, tránh rơi vào đổ vỡ như một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là vỡ nợ công do các nguyên nhân khủng hoảng kinh tế, tài chính và thực thi các chính sách xã hội bất hợp lí - hệ quả “xấu” của các phiên bản phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, của việc theo đuổi mục tiêu dân chủ sản.

Mặt khác, công bằng xã hội không phải là một sự ngang bằng, dàn đều theo kiểu bình quân chủ nghĩa. Công bằng xã hội khác biệt về chất với chủ nghĩa bình quân. Công bằng xã hội hướng đến kích thích, thúc đẩy động cơ lợi ích chính đáng thông qua hoàn thiện quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và sự hài hòa lợi ích giữa các cá nhân và nhóm xã hội; đảm bảo sự bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi và công bằng về cơ hội phát triển. Theo đó, công bằng xã hội được thực hiện dựa trên chế độ phân phối công bằng, hưởng thụ ngang bằng với mức độ đóng góp, cống hiến của từng cá nhân, chứ không phải là sự ngang bằng về hưởng thụ mà không dựa trên sự cống hiến của họ. Nguyên tắc căn bản trên của công bằng xã hội sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua tác động vào động cơ lợi ích thôi thúc con người hành động. Trái lại, chủ nghĩa bình quân triệt tiêu động lực thúc đẩy hoạt động của con người. Do đó không được đồng nhất công bằng xã hội với bình đẳng xã hội. Nếu đồng nhất hai khái niệm trên sẽ rơi vào chủ nghĩa bình quân, dẫn đến sai lầm trong thực hiện và sẽ không thể đạt được đồng thời mục tiêu kép phát triển kinh tế và công bằng xã hội.

2. Thành tựu, hạn chế phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội và một số vấn đề đặt ra hiện nay

Trong quá trình đổi mới, Đảng ta lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội; phát huy cao nhất tác động tích cực và hạn chế hiệu quả ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. Đồng thời với phát triển kinh tế, Đảng ta chú trọng đến công tác xoá đói giảm nghèo đa chiều bền vững, đầu tư hiệu quả cho y tế, giáo dục, văn hoá, việc làm, xây dựng môi trường sinh thái, cải thiện an sinh xã hội, kiện toàn hệ thống bảo đảm công bằng phúc lợi xã hội làm cho kinh tế phát triển mà còn đảm bảo thực hiện tốt công bằng xã hội.

Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Đảng ta tự hào khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[10].

Không chỉ tự đánh giá thành tựu đạt được, những thành quả phát triển của nước ta cũng được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt, Báo cáo phát triển con người 2019 của UNDP đưa ra một kết quả quan trọng, “chỉ số HDI năm 2019 là 0,704, đưa Việt Nam vào nhóm phát triển con người cao và xếp thứ 117 trong số 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ năm 1990 đến 2019, giá trị HDI của Việt Nam đã tăng gần 46%, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới... Về chất lượng phát triển con người, Việt Nam thực hiện tốt các chỉ số y tế, giáo dục, việc làm và phát triển nông thôn. Việt Nam nằm trong nhóm đầu trong ba nhóm về số năm không sống khỏe theo tỷ lệ phần trăm tuổi thọ (11,7%) và số giường bệnh (32 giường/100 nghìn dân); tất cả giáo viên tiểu học đều được đào tạo, điện khí hóa nông thôn đạt 100% dân số, tỷ lệ thất nghiệp thấp” (Báo Nhân dân điện tử, 2022). Chỉ số Bất bình đẳng giới của Việt Nam có nhiều tiến bộ, đạt giá trị 0,314, xếp thứ hạng 68/189 nước trên thế giới. Xét về thứ hạng, so với các nước trong ASEAN: Việt Nam đứng sau Singapore (số liệu tương ứng là 0,065; 11/189 và Malaysia là 0,274; 58/189), đứng trên Thái Lan (0,377; 84/189); Philippin (0,425; 98/189); Indonexia (0,451; 103/189); Lào (0,463;110/189) và Cămpuchia (0,474; 114/189)[11]. Những thành tựu trên đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội; khẳng định bản chất tốt đẹp, ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và cũng là xã hội tương lai mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới.

Bên cạnh những thành quả to lớn, thành tựu quan trọng như trên, đất nước ta còn có những hạn chế, yếu kém. Các vấn đề mặt trái của kinh tế thị trường vẫn còn tồn tại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đang còn hiện hữu; bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại và có mặt còn gay gắt hơn; các vấn đề phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, những bất bình đẳng xã hội, xuống cấp, suy đồi đạo đức chưa được giải quyết triệt để đang đặt ra những thách thức không nhỏ, là những lực cản của quá trình phát triển.

Một số vấn đề đặt ra hiện nay

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức và thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XIII về phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội thành các chính sách, pháp luật; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Thứ hai, mỗi chính sách phát triển kinh tế phải hướng tới thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; khắc phục khó khăn, trở ngại trong thực hiện phúc lợi, an sinh xã hội, không đánh đổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, bất chấp tác động tiêu cực đến xã hội và cuộc sống của nhân dân. Khắc phục tâm lí chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, không quan tâm đúng mức các vấn đề xã hội.

Thứ ba, thực hiện chính sách xã hội phải phù hợp, tạo địa bàn và nguồn lực thuận lợi cho kinh tế phát triển. Phát huy tối đa các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; đặc biệt cần phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể trong nền kinh tế để tạo động lực cho phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, trực tiếp tác động, ảnh hưởng tới đời sống nhân dân; tuy nhiên phải đảm bảo tính thực tiễn và tính ổn định, tính bền vững của chính sách xã hội dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn đúng đắn.

Thứ tư, nhận thức về phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội phải có quan điểm khách quan, có cái nhìn lịch sử, cụ thể trong đánh giá, từ đó thấy được thực chất, tính ưu việt của công bằng xã hội ở Việt Nam, không mắc vào cái nhìn phiến diện, méo mó, lệch lạc và các quan điểm tuyên truyền phản động với mưu đồ chính trị rất rõ ràng của các nhà “dân chủ”, “nhân quyền”, những người “mượn” đấu tranh cho công bằng, tiến bộ xã hội để trục lợi và thể hiện sự bất mãn, chống phá. Chỉ có trên quan điểm như vậy mới có thể so sánh, đánh giá thành tựu, khẳng định tính ưu việt trong phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay; mới thấy được sự thống nhất giữa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo công bằng xã hội với thực tiễn đang diễn ra.

Hiện nay, các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang chịu sự tác động mạnh mẽ đa chiều của quá trình toàn cầu hóa, của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ những thách thức an ninh phi truyền thống,v.v… Đặc biệt, thực tiễn các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, thiên tai, dịch bệnh những những năm qua là những “phép thử” đối với việc đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội của tất cả các quốc gia, dân tộc. Đối với các nước tư bản, nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các cuộc khủng hoảng thời gian qua đã làm phơi bày bản chất đích thực của các thể chế chính trị dựa trên chế độ tư hữu mà quyền lực kinh tế, chính trị rơi vào tay một thiểu số; đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa. Đó là sự “phát triển bất chấp đạo lý khi “vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”; “gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội” dựa trên sự cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm…”[12]. Tình hình đó đặt ra cho nước ta những thách thức lớn, đồng thời cũng là cơ hội để tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả hơn chủ trương phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Từ đó, chúng ta càng có cơ sở để khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như thực tiễn phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội ở nước ta. Nó cho thấy, vấn đề phát triển kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội càng trở nên quan trọng và cấp thiết; phương hướng quan trọng làm cơ sở cho hoạch định và tiếp tục thực thi đường lối đổi mới phát triển đất nước.

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự thật, tr.86.

 

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.53.

 

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.99.

[4] Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.27.

[5] Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.8.

[6] C.Mác và Ph. Ăngghen (1995). Toàn tập  (tập 19). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.35.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995). Toàn tập (tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.771.

[8] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995). Toàn tập (tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.772.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.25.

[11] Lê Văn Lợi (2022, ngày 21 tháng 01). Tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường nhằm phát triển nhanh và bền vững đất nước. Truy xuất từ http://hdll.vn , trích đọc ngày25/8/2022.

 

Nhận xét